Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
Cục Hàng không Việt Nam có văn bản chấp thuận Kế hoạch thử nghiệm khai thác mô hình A-CDM giai đoạn 1 (Airport Collaborative Decision Making) tại 2 cảng hàng không lớn nhất cả nước là Nội Bài và Tân Sơn Nhất. Đây là nội dung rất quan trọng, đánh dấu những thành quả bước đầu của quá trình xây dựng mô hình A-CDM tại các cảng hàng không của Việt Nam.
A-CDM được định nghĩa là Quy trình phối hợp giữa các đơn vị để ra quyết định tại cảng hàng không, sân bay; đồng thời A-CDM cung cấp một nền tảng phần mềm chung để các đơn vị phối hợp, chia sẻ thông tin, dữ liệu phục vụ công tác ra quyết định tại cảng hàng không, sân bay.
Theo báo cáo thống kê của các tổ chức hàng không dân dụng thế giới (ICAO) và Hội đồng sân bay quốc tế (ACI), A-CDM đã được phổ biến tại nhiều các sân bay tiên tiến trên thế giới như Changi (Singapore), Incheon (Hàn Quốc), Suvarnabhumi (Thái Lan), Thượng Hải, Bắc Kinh, Hong Kong (Trung Quốc)…
Tại các sân bay có sản lượng vận chuyển lớn như Nội Bài hay Tân Sơn Nhất, các quy trình hiện tại chưa tối ưu hiệu quả khai thác do nhiều nguyên nhân: Thông tin chưa thông suốt giữa các đơn vị, mỗi đơn vị thực hiện các quy trình riêng rẽ nên chưa tối ưu hóa các tài nguyên; khai thác theo nguyên tắc “đến trước, phục vụ trước” dẫn đến nhiều trường hợp xáo trộn thứ tự khởi hành; nhiều tàu bay phải xếp hàng chờ đến lượt cất cánh, khó có thể kiểm soát được thời gian lăn; giữa hãng hàng không, đơn vị phục vụ mặt đất, cảng hàng không, đơn vị quản lý bay chưa có phương án tối ưu để chia sẻ thông tin về quá trình tàu bay quay đầu cũng như trạng thái hoãn chuyến theo thời gian thực…
Công tác phối hợp ra quyết định tại cảng hàng không (A-CDM) với quy trình chặt chẽ, nền tảng thông tin thông suốt, sự phối hợp chia sẻ thông tin theo quy trình thống nhất và đồng bộ giữa các mắt xích chắc chắn giải quyết trọn vẹn các tồn tại của phương thức hiện hành.
Khi triển khai A-CDM sẽ giúp tối ưu hóa việc sử dụng cơ sở hạ tầng sân bay; cải thiện các chỉ số liên quan đến khai thác đúng giờ, giảm thiểu các kế hoạch phân bổ vị trí đỗ, quầy check-in, gate; tối ưu thời gian quay đầu của tàu bay; cải thiện khả năng dự báo tình huống và tiết kiệm thời gian bay; giảm thiểu tắc nghẽn trên đường lăn, sân đỗ; tối ưu thứ tự khởi hành; tiết kiệm nhiên liệu, nâng cao hiệu quả vận chuyển…
Khi bay qua các cảng hàng không có hệ thống A-CDM, hành khách sẽ được trải nghiệm những chuyến bay có tỉ lệ đúng giờ cao, hạn chế những tình huống bay vòng để chờ hạ cánh, giảm thiểu các tình huống tàu bay dừng chờ lâu trên đường băng, đồng thời công tác phục vụ hành lý, hàng hóa của chuyến bay sẽ được phục vụ tốt hơn,… do các chuyến bay được lập kế hoạch tốt, có thông tin rõ ràng, được tối ưu hóa các khâu trong quá trình khai thác nhờ A-CDM.
Ví dụ, trong trường hợp sân bay đến mật độ bay quá dày hay thời tiết dự báo không thuận lợi, thay vì chuyến bay khởi hành theo kế hoạch và bay vòng trên trời để chờ tiếp thu thì sân bay đến (có A-CDM) thông báo giờ cất cánh tính toán (Calculated Take off Time - CTOT), theo đó điều chỉnh lại giờ cất cánh cho phù hợp, khách chỉ phải chờ tại nhà ga và khi có CTOT, tàu bay khởi hành theo thời gian mới, không phải bay vòng chờ tại nơi đến, tiết kiệm nhiên liệu cho hãng, đem lại những trải nghiệm thuận tiện hơn cho hành khách khi bay.
Để giảm thiểu rủi ro, đảm bảo việc đầu tư hiệu quả và thành công của dự án, Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam (ACV) cho biết đã báo cáo Cục Hàng không Việt Nam và được chấp thuận chia Đề án triển khai A-CDM tại Cảng HKQT Nội Bài và Cảng HKQT Tân Sơn Nhất thành 2 giai đoạn:
Giai đoạn 1, áp dụng phần mềm tự phát triển nội bộ A-CDM Portal (do ACV tự phát triển) để sử dụng nền tảng chia sẻ thông tin và làm quen với mô hình A-CDM cho các đơn vị liên quan, đồng thời nhằm kiểm tra, điều chỉnh lại quy trình phối hợp giữa các đơn vị trong việc áp dụng mô hình A-CDM tại Cảng HKQT Nội Bài và Cảng HKQT Tân Sơn Nhất.
Giai đoạn 2, đầu tư mua sắm hệ thống A-CDM hoàn chỉnh sẽ được cân nhắc thực hiện trên cơ sở kết quả đánh giá thực hiện thành công của giai đoạn 1 và đánh giá tổng thể các yếu tố ảnh hưởng đến dự án, sau khi toàn bộ quy trình, hệ thống đã được chuẩn hóa và được phê duyệt, nhằm mục đích giảm thiểu rủi ro và tránh lãng phí khi thực hiện công tác mua sắm.
Cục Hàng không Việt Nam đã phê duyệt Tài liệu hướng dẫn khai thác áp dụng mô hình A-CDM cho giai đoạn 1 và Kế hoạch thử nghiệm thực tế tại 2 cảng HKQT Nội Bài và Tân Sơn Nhất. Đây là cơ sở pháp lý để các đơn vị liên quan hoàn thiện các đợt huấn luyện đào tạo nội bộ và xây dựng kế hoạch triển khai cụ thể tại các bộ phận của các bên liên quan.
Theo kế hoạch, giai đoạn 1 được đưa vào thử nghiệm vào tháng 3/2023 tại Cảng HKQT Nội Bài (từ ngày 26/3/2023 đến ngày 30/4/2023) và tại Cảng HKQT Tân Sơn Nhất (từ ngày 27/3/2023 đến ngày 27/4/2023).
Theo chỉ đạo của Cục Hàng không Việt Nam, sau khi thử nghiệm giai đoạn 1, các bên phải đánh giá tình hình và báo cáo kết quả về Cục Hàng không; Cảng vụ hàng không miền Bắc và miền Nam có trách nhiệm giám sát quá trình triển khai A-CDM tại Cảng HKQT Nội Bài và Tân Sơn Nhất để đảm bảo an ninh an toàn khai thác theo quy định.
Phan Trang