Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
Bộ Tài nguyên và Môi trường trả lời vấn đề này như sau:
Nội dung phản ánh của ông Trọng chưa cụ thể, tuy nhiên, theo nội dung phản ánh trên, gia đình ông đã được cấp một trong các loại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở hoặc Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở hoặc Giấy chứng nhận quyền sở hữu công trình xây dựng hoặc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (sau đây gọi là Giấy chứng nhận).
Đối với trường hợp hộ gia đình, cá nhân đã được cấp Giấy chứng nhận mà loại đất là đất ở tại đô thị hoặc đất ở tại nông thôn thì thời hạn sử dụng đất là ổn định lâu dài mà không phải thực hiện gia hạn sử dụng đất.
Đối với trường hợp hộ gia đình, cá nhân đã được cấp Giấy chứng nhận vào mục đích đất nông nghiệp, thuộc trường hợp trực tiếp sản xuất nông nghiệp do được Nhà nước giao đất, công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất, khi hết thời hạn sử dụng đất thì được tiếp tục sử dụng đất theo thời hạn quy định tại Khoản 1 Điều 126 và Khoản 3 Điều 210 của Luật Đất đai mà không phải làm thủ tục điều chỉnh thời hạn sử dụng đất.
Trường hợp hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp đang sử dụng đất nông nghiệp đã được Giấy chứng nhận với loại đất nông nghiệp do được Nhà nước giao, công nhận, nhận chuyển quyền sử dụng đất, khi hết thời hạn sử dụng đất có nhu cầu xác nhận lại thời hạn sử dụng đất trên Giấy chứng nhận thì thực hiện theo trình tự, thủ tục quy định tại Khoản 3 Điều 74 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP.
Trường hợp hộ gia đình, cá nhân không trực tiếp sản xuất nông nghiệp đã được cấp Giấy chứng nhận với loại đất nông nghiệp, trước khi hết hạn sử dụng đất tối thiểu 6 tháng mà có nhu cầu gia hạn sử dụng đất thì thực hiện theo quy định tại Khoản 1 Điều 74 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP.
Pháp luật đất đai hiện hành không có quy định về cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất tạm thời.
Điều kiện được bồi thường khi thu hồi đất
Tại Khoản 1 Điều 75 Luật Đất đai năm 2013 đã quy định điều kiện được bồi thường về đất cho hộ gia đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng:
Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không phải là đất thuê trả tiền thuê đất hàng năm, có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất hoặc có đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của Luật Đất đai mà chưa được cấp, trừ trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 77 Luật Đất đai năm 2013; người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc đối tượng được sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam mà có Giấy chứng nhận hoặc có đủ điều kiện được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của Luật này mà chưa được cấp.
Tại Khoản 1 Điều 74 Luật Đất đai năm 2013 quy định một trong các nguyên tắc bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất là người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất nếu có đủ điều kiện được bồi thường quy định tại Điều 75 Luật Đất đai năm 2013 thì được bồi thường.
Đối với vướng mắc về việc xây dựng, sửa chữa nhà ở đề nghị ông liên hệ cơ quan quản lý Nhà nước về xây dựng để được giải đáp theo quy định.