Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
Từ tầm nhìn lý luận và tổng kết thực tiễn hơn 90 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, có thể khẳng định: Mọi thắng lợi của Đảng và dân tộc đều gắn liền với việc lựa chọn, rèn luyện và trọng dụng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, trí tuệ sắc bén, đạo đức trong sáng và năng lực tổ chức thực tiễn cao. Đội ngũ cán bộ ấy chính là "trung tâm của năng lực cầm quyền và quản trị quốc gia", đồng thời là nhân tố quyết định việc hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Lễ khai giảng Lớp bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, kỹ năng đối với cán bộ quy hoạch Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIV ngày 26/5/2025
Vai trò của đội ngũ cán bộ trong bối cảnh mới
Cán bộ – trung tâm của năng lực cầm quyền và quản trị quốc gia
Đảng ta khẳng định: "Cán bộ là nhân tố quyết định thành bại của cách mạng; công tác cán bộ là khâu then chốt của công tác xây dựng Đảng"[1]. Lời khẳng định này không chỉ thể hiện tầm nhìn lý luận sâu sắc mà còn là sự tổng kết thực tiễn hơn 90 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam: mọi thắng lợi của dân tộc đều gắn liền với việc Đảng ta lựa chọn, rèn luyện và trọng dụng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị, trí tuệ, đạo đức và năng lực tổ chức thực tiễn.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh,"Cán bộ là cái gốc của mọi công việc; công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém"[2]. Ở đây, Người không coi cán bộ chỉ là người "thực thi", mà là "cái gốc" – nền tảng quyết định sự sống còn của mọi chủ trương, chính sách. Nếu Đảng là người cầm lái, thì cán bộ là bánh lái, là động cơ, chuyển hóa ý chí cách mạng của Đảng thành hành động cách mạng trong nhân dân.
Ngày nay, khi đất nước bước vào kỷ nguyên hội nhập toàn cầu, chuyển đổi số và kinh tế tri thức, vai trò của cán bộ ngày càng mang tính hệ thống và chiến lược. Cán bộ không còn chỉ là người "thi hành nghị quyết", mà phải trở thành "kiến trúc sư của chính sách", người quản trị sự thay đổi, thiết kế thể chế, vận hành dữ liệu, và kết nối quốc gia với thế giới. Mô hình "cán bộ – chấp hành" cần chuyển sang mô hình "cán bộ – kiến tạo thay đổi", nơi phẩm chất chính trị và năng lực quản trị hiện đại hòa quyện, tạo nên hiệu quả có thể đo lường và niềm tin xã hội có thể kiểm chứng.
Với vai trò đó, cán bộ chính là thước đo năng lực cầm quyền của Đảng. Một chủ trương đúng nhưng cán bộ yếu thì khó đi vào cuộc sống; ngược lại, một đội ngũ cán bộ có tâm – có tầm – có trách nhiệm sẽ biến những mục tiêu lớn thành kết quả cụ thể. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhiều lần nhấn mạnh: "Cán bộ tốt thì chính sách dù khó mấy cũng thành công; cán bộ kém thì chính sách đúng cũng không đi vào cuộc sống"[3]. Đây là lời nhắc sâu sắc về mối quan hệ biện chứng giữa chủ trương – con người – kết quả.
Cán bộ không chỉ là "mắt xích" trong bộ máy hành chính, mà là động lực của cải cách, trung tâm của năng lực cầm quyền hiện đại, quyết định việc Đảng ta có đủ sức dẫn dắt quốc gia vượt qua thách thức toàn cầu hay không.
Cán bộ – bộ chuyển hóa "ý Đảng" thành "đời sống của chính sách"
Trong chuỗi giá trị cầm quyền, cán bộ chính là "bộ chuyển hóa" – biến ý Đảng (đường lối, chủ trương chính trị) thành chính sách cụ thể, chương trình hành động và hiệu quả thực tiễn. Nếu "ý Đảng" là tầm nhìn chiến lược, thì "đời sống của chính sách" là mức độ chính sách đi vào cuộc sống và mang lại lợi ích thiết thực cho Nhân dân. Khoảng cách giữa hai yếu tố ấy được thu hẹp hay kéo giãn phụ thuộc chủ yếu vào chất lượng của đội ngũ cán bộ.
Ở cấp chiến lược, cán bộ đảm nhiệm vai trò thiết kế thể chế, hoạch định chính sách và tham mưu chiến lược – những người "vẽ bản đồ phát triển" cho quốc gia. Ở cấp thực thi, cán bộ là người vận hành chuỗi giá trị công vụ, từ lập kế hoạch – phối hợp liên ngành – cung ứng dịch vụ công – kiểm tra – giám sát – đánh giá. Trong bối cảnh chuyển đổi số, tiêu chí "hoàn thành công việc" không còn được đo bằng việc ký đủ hồ sơ, mà bằng tác động cụ thể, đo lường được đối với người dân và doanh nghiệp. Do đó, hiệu quả của cán bộ chính là chất lượng của quản trị quốc gia.
Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 của Ban Chấp hành Trung ương về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, đã nhấn mạnh: "Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là công việc hệ trọng của Đảng, phải được tiến hành thường xuyên, thận trọng, khoa học, chặt chẽ và hiệu quả. Đầu tư cho cán bộ là đầu tư cho phát triển lâu dài, bền vững[4]".
Khẳng định đó cho thấy: hiệu quả chính sách chính là tấm gương phản chiếu phẩm chất, năng lực và uy tín của cán bộ. Một đội ngũ cán bộ giỏi về tổ chức, sâu sát với dân, có trách nhiệm, có tầm nhìn sẽ bảo đảm cho các chương trình phát triển được triển khai nhất quán, sáng tạo, linh hoạt và phù hợp thực tiễn. Ngược lại, nếu cán bộ thiếu bản lĩnh, yếu năng lực, thiếu gắn bó với nhân dân, thì dù chính sách đúng, cũng khó biến thành sức mạnh vật chất trong đời sống xã hội.
Cán bộ – trụ cột của liêm chính hóa quyền lực
Trong bối cảnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đang được đẩy mạnh và trở thành phong trào chính trị có tính thường trực, cán bộ giữ vai trò vừa là chủ thể – vừa là "van an toàn" của quyền lực. Quyền lực nếu không được kiểm soát sẽ dẫn đến tha hóa, còn liêm chính của cán bộ chính là "hàng rào đạo đức" bảo vệ Đảng, bảo vệ uy tín chính trị và tính chính danh của hệ thống.
Đảng ta đã thiết lập hành lang liêm chính thể chế bằng chuỗi quy định quan trọng, đồng bộ, thể hiện tư duy quản trị hiện đại và quyết tâm chính trị cao trong xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh[5]. Những văn bản này thể hiện rõ tư duy quản trị quyền lực mới của Đảng ta: Quyền lực phải được kiểm soát bằng thể chế, còn sáng tạo phải được khuyến khích bằng niềm tin.
Khi cơ chế này vận hành đồng bộ, cán bộ có "vùng an toàn pháp lý" để đổi mới, đồng thời có "vùng cấm đạo đức" để không sa vào chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, vụ lợi. Đó chính là nền tảng của liêm chính thể chế – kết hợp hài hòa giữa pháp trị và đạo trị, giữa kỷ luật của Đảng và động lực của sáng tạo.
Cán bộ hôm nay cần hiểu rằng: Liêm chính không chỉ là đức tính cá nhân, mà là giá trị thể chế; Không chỉ là sự trong sạch về tài sản, mà còn là sự minh bạch trong động cơ, mục tiêu và hành động công vụ. Khi liêm chính trở thành chuẩn mực hành động, thì niềm tin của Nhân dân – "vốn chính trị" quý giá nhất của Đảng – được củng cố và nhân lên. Đó chính là cột trụ đạo đức bảo vệ năng lực cầm quyền và uy tín lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ mới.
Cán bộ – "lợi thế thể chế" trong cạnh tranh toàn cầu
Khi nguồn lực vật chất, tài nguyên thiên nhiên và lao động giá rẻ dần cạn kiệt, lợi thế phát triển của một quốc gia không còn nằm ở tài nguyên thiên nhiên, mà ở năng lực thể chế và chất lượng đội ngũ cán bộ. Đó chính là nguồn lực chiến lược, mang tính quyết định trong năng lực cạnh tranh toàn cầu của quốc gia.
Cán bộ là "vốn xã hội đặc biệt" – nguồn lực không thể thay thế, kết tinh giữa trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh chính trị. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, mỗi cán bộ không chỉ đại diện cho hình ảnh quốc gia, mà còn phản ánh năng lực quản trị quốc gia và văn hóa chính trị của Đảng cầm quyền. Một cán bộ yếu kém về năng lực, thiếu đạo đức, hạn chế hiểu biết quốc tế có thể làm tổn hại niềm tin của Nhân dân, uy tín của tổ chức và vị thế của đất nước. Ngược lại, một cán bộ có bản lĩnh, trí tuệ, tầm nhìn toàn cầu sẽ mở ra không gian phát triển mới, đưa chính sách hội nhập của Đảng đi vào thực chất.
Cán bộ trong kỷ nguyên mới không chỉ "hiểu luật – hiểu dân – hiểu việc", mà còn phải thạo dữ liệu – thạo công nghệ – thạo đối thoại quốc tế. Họ phải đủ năng lực dẫn dắt cải cách, điều phối liên ngành, liên vùng, xử lý hiệu quả các thách thức toàn cầu như biến đổi khí hậu, an ninh phi truyền thống, chuyển đổi năng lượng, và kinh tế số. Đó là chuẩn mực mới của cán bộ hiện đại – người kết nối giữa "quyền lực mềm của Đảng" và "sức mạnh cứng của quốc gia".
Đảng ta xác định rõ: "Đầu tư cho cán bộ là đầu tư cho phát triển lâu dài, bền vững"[6]. Cán bộ, vì thế, được nhìn nhận như "lợi thế thể chế" – nhân tố trung tâm quyết định khả năng hội nhập, năng lực sáng tạo và sức bền phát triển của đất nước. Việc xây dựng đội ngũ cán bộ "phẩm chất – năng lực – uy tín – liêm chính – hiệu quả" không chỉ là yêu cầu cấp bách của hiện tại, mà còn là chiến lược lâu dài bảo đảm năng lực cầm quyền và hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước đến năm 2030, tầm nhìn 2045.

Thực trạng đội ngũ cán bộ hiện nay và những yêu cầu đặt ra
Những chuyển biến tích cực – nền tảng cho sự phát triển
Trong những năm qua, công tác cán bộ đã đạt được những kết quả nổi bật. Nhìn tổng thể, đội ngũ cán bộ các cấp gần 40 năm qua đã có bước trưởng thành, phát triển về nhiều mặt, chất lượng ngày được nâng lên; đa số đội ngũ cán bộ vẫn giữ vững được bản lĩnh chính trị, lập trường tư tưởng vững vàng, đạo đức, lối sống giản dị, gương mẫu, tích cực tham gia và có những đóng góp quan trọng vào công cuộc đổi mới đất nước, có ý thức rèn luyện, phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ được giao. Số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ tăng lên rõ rệt (năm 1997 cả nước có 1.351.900 cán bộ, công chức; năm 2007 có 1.976.976 cán bộ, công chức; đến 2017, tổng số cán bộ, công chức, viên chức là: 2.726.917 người; hiện nay là 2.234.720 người), cơ cấu ngày một hợp lý hơn[7].
Công tác cán bộ đã có nhiều chuyển biến tích cực, hiệu quả; đã bám sát nhiệm vụ chính trị và yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ phù hợp với từng giai đoạn cách mạng, và đạt được nhiều kết quả quan trọng. Cụ thể là:
- Đánh giá cán bộ là khâu tiền đề, có ý nghĩa quan trọng trong công tác cán bộ, đã được triển khai chặt chẽ, thực chất hơn; nội dung, quy trình, phương pháp từng bước được đổi mới, dân chủ, khách quan, gắn với chức trách, nhiệm vụ được giao, với thực hiện nghị quyết, kết luận về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, về học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, góp phần thực hiện tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp, bố trí, sử dụng cán bộ.
- Công tác quy hoạch cán bộ là khâu trọng yếu, thường xuyên trong công tác cán bộ được thực hiện đồng bộ, thống nhất[8] theo phương châm "động", "mở"; một chức danh quy hoạch không quá 03 người, một người quy hoạch không quá 03 chức danh làm cơ sở cho công tác đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng cán bộ; số lượng, chất lượng cán bộ được quy hoạch được nâng lên, cơ bản bảo đảm 3 độ tuổi; việc tạo nguồn quy hoạch cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ là người dân tộc thiểu số được chú trọng hơn.
- Công tác luân chuyển cán bộ được Trung ương[9] và các cấp ủy, tổ chức đảng đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện đạt được nhiều kết quả tích cực, góp phần đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện cán bộ trong thực tiễn[10] gắn với thực hiện chủ trương bố trí bí thư cấp ủy và một số chức danh lãnh đạo, quản lý không là người địa phương.
- Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có nhiều chuyển biến tích cực, góp phần nâng cao trình độ, kiến thức các mặt cho đội ngũ cán bộ[11]. Nội dung chương trình, hình thức đào tạo, bồi dưỡng từng bước được đổi mới; đã chú trọng hơn việc bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới và bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm, sát với yêu cầu nhiệm vụ, gắn giữa đào tạo, bồi dưỡng ở trong nước với nghiên cứu, học tập ở nước ngoài thực chất và hiệu quả hơn.
- Công tác tuyển chọn, bố trí và bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp có nhiều đổi mới, ngày một hoàn thiện hơn với các quy định, quy chế, quy trình đồng bộ, chặt chẽ hơn…; đa số cán bộ được bầu, bổ nhiệm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ, phát huy tốt chức trách, nhiệm vụ được giao. Việc bầu cử trong Đảng được thực hiện chặt chẽ theo Quy chế bầu cử trong Đảng, được bổ sung, sửa đổi qua các nhiệm kỳ, đã phát huy dân chủ, đề cao kỷ cương, kỷ luật của Đảng[12]; đã tích cực phân cấp quản lý cán bộ, xác định rõ hơn về thẩm quyền, trách nhiệm của tập thể, cá nhân, nhất là cá nhân người đứng đầu trong công tác cán bộ.
- Công tác chính sách cán bộ; tổ chức bộ máy làm công tác tổ chức cán bộ từng bước đổi mới; đội ngũ cán bộ tham mưu về công tác tổ chức, cán bộ ở các cấp, các ngành có sự trưởng thành, cơ bản đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao.
- Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng ngày được tăng cường; kỷ luật, kỷ cương của Đảng, pháp luật của Nhà nước được đề cao; kết hợp kiểm tra thực hiện Cương lĩnh, Điều lệ, nghị quyết của Đảng với kiểm tra, giám sát những lĩnh vực nhạy cảm, dễ phát sinh sai phạm, tiêu cực, những vấn đề dư luận bức xúc, cán bộ, đảng viên và nhân dân quan tâm[13].
Những kết quả đó khẳng định: Đảng ta đang hình thành một thế hệ cán bộ "vừa hồng, vừa chuyên", có tri thức, có năng lực thích ứng, có tinh thần dấn thân, sáng tạo và phụng sự Tổ quốc. Đây chính là nền tảng bảo đảm năng lực cầm quyền của Đảng và sự phát triển bền vững của đất nước trong giai đoạn mới.
Hạn chế và thách thức – những "điểm nghẽn" cần kiên quyết tháo gỡ
Đội ngũ cán bộ tuy đã có bước trưởng thành về nhiều mặt, nhưng nhìn chung đội ngũ cán bộ đông nhưng chưa mạnh. Tỉ lệ cán bộ trẻ[14], cán bộ nữ[15], cán bộ người dân tộc thiểu số[16] chưa đạt yêu cầu đề ra; cơ cấu đội ngũ cán bộ giữa các ngành nghề, lĩnh vực, vùng miền chưa thật hợp lý. Một bộ phận cán bộ sa sút về bản lĩnh chính trị, dao động về lập trường, quan điểm, xa rời tính đảng, xa rời nhân dân. Một số cán bộ uy tín thấp, suy thoái về đạo đức, lối sống, thiếu gương mẫu, biến chất, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; thiếu tinh thần trách nhiệm, nói không đi đôi với làm, xa rời nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình. Một số nơi có tình trạng mất đoàn kết nội bộ, vi phạm kỷ luật, kỷ cương, vi phạm pháp luật; số cán bộ bị xử lý kỷ luật, xử lý bằng pháp luật có chiều hướng tăng.
Mặc dù công tác cán bộ thời gian qua đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, song vẫn còn những hạn chế, yếu kém cần được thẳng thắn nhìn nhận, phân tích và có giải pháp khắc phục đồng bộ, hiệu quả hơn trong thời gian tới. Đó là:
- Một số khâu trong công tác cán bộ còn chậm được đổi mới; quy trình, quy định ở một số lĩnh vực chưa thật sự hoàn thiện, còn có kẽ hở, bị lợi dụng, ảnh hưởng đến tính khách quan, công tâm và hiệu lực quản lý.
- Công tác quy hoạch cán bộ ở nhiều địa phương, đơn vị chưa thật sự bảo đảm tính chiến lược, tổng thể, thiếu sự liên thông giữa các cấp, các ngành; còn biểu hiện khép kín, cục bộ, dàn trải, chưa quán triệt đầy đủ phương châm "động" và "mở". Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tuy có chuyển biến tích cực nhưng nhìn chung vẫn chậm đổi mới, chưa gắn chặt giữa lý luận và thực tiễn, giữa đào tạo với quy hoạch và yêu cầu vị trí việc làm; nội dung, phương pháp còn nặng về truyền đạt, chưa chú trọng rèn luyện kỹ năng thực hành và xử lý tình huống.
- Việc luân chuyển, bố trí, sắp xếp cán bộ, trong đó có chủ trương bố trí một số chức danh lãnh đạo chủ chốt không là người địa phương, vẫn còn những bất cập, chưa đạt được mục tiêu đề ra. Ở một số nơi, công tác bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử tuy đúng quy trình về hình thức nhưng chưa bảo đảm "đúng người, đúng việc", thậm chí còn xảy ra tình trạng bổ nhiệm cán bộ chưa đủ tiêu chuẩn, điều kiện, có biểu hiện cục bộ, thân quen, "cánh hẩu", gây bức xúc trong cán bộ, đảng viên và dư luận xã hội.
- Công tác tuyển dụng, thi nâng ngạch công chức, viên chức còn nhiều hạn chế, chất lượng chưa đồng đều, một số nơi còn xảy ra sai phạm, tiêu cực. Chủ trương thu hút, trọng dụng nhân tài triển khai còn chậm, thiếu cơ chế, chính sách đủ mạnh và phù hợp với thực tiễn; kết quả thu hút trí thức trẻ, chuyên gia giỏi, người có trình độ cao chưa đạt yêu cầu.
- Chính sách cán bộ giữa các cấp, các ngành còn thiếu sự thống nhất, đồng bộ; chính sách tiền lương, nhà ở, thi đua, khen thưởng chưa thực sự tạo động lực mạnh mẽ để cán bộ yên tâm công tác, cống hiến lâu dài. Đặc biệt, cơ chế bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, quyết liệt hành động vì lợi ích chung vẫn chưa được thể chế hóa đầy đủ, chưa trở thành "lá chắn" vững chắc để khuyến khích đổi mới, sáng tạo trong đội ngũ cán bộ hiện nay.
Cơ chế kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ tuy đã được quan tâm, bổ sung, hoàn thiện qua nhiều văn bản, quy định của Đảng và Nhà nước, song vẫn chưa thật sự cụ thể, đồng bộ và hiệu quả thực thi còn thấp. Ở một số nơi, việc kiểm tra, giám sát, phát hiện, xử lý vi phạm chưa được tiến hành thường xuyên, kịp thời, thiếu tính răn đe, dẫn đến tình trạng buông lỏng quản lý, lạm quyền, lợi dụng quyền lực vì mục đích cá nhân.
Đáng chú ý, tình trạng "chạy chức, chạy quyền", "chạy quy hoạch", "chạy luân chuyển", "chạy bằng cấp", "chạy khen thưởng", "chạy danh hiệu", thậm chí "chạy tội" vẫn còn diễn biến phức tạp, gây bức xúc trong dư luận xã hội. Một số vụ việc cho thấy có biểu hiện lợi dụng sơ hở trong quy trình, quy định để vận động, tác động, can thiệp trái nguyên tắc, làm sai lệch tiêu chí, tiêu chuẩn trong công tác cán bộ. Đáng lo ngại hơn, tình trạng này không chỉ xảy ra ở cấp cơ sở mà còn có biểu hiện ở một số cán bộ giữ cương vị lãnh đạo, quản lý cấp cao, ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín của tổ chức đảng và niềm tin của nhân dân đối với Đảng.
Thực tế đó cho thấy, cơ chế kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ tuy đã có nhưng chưa đủ sức "khóa chặt" quyền lực bằng trách nhiệm, chưa gắn liền giữa quyền hạn với nghĩa vụ và chế tài cụ thể. Ở một số trường hợp, việc xử lý sai phạm còn nể nang, né tránh, chưa thực sự nghiêm minh; công tác phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh chống chạy chức, chạy quyền chưa được triển khai một cách chủ động, hệ thống và kiên quyết.
Những hạn chế, yếu kém và biểu hiện tiêu cực trong công tác cán bộ thời gian qua bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, cả chủ quan và khách quan, trong đó có một số nguyên nhân chủ yếu sau:
Thứ nhất, ở một số cấp ủy, cơ quan, đơn vị, việc nghiên cứu, học tập, quán triệt các nghị quyết, quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác cán bộ chưa được tiến hành thường xuyên, sâu sắc, nghiêm túc.
Thứ hai, một bộ phận cấp ủy và người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương chưa thực hiện đầy đủ trách nhiệm trong công tác cán bộ. Ở một số nơi, nguyên tắc tập trung dân chủ chưa được tôn trọng, thậm chí có biểu hiện độc đoán, chuyên quyền, can thiệp sâu vào các khâu quy hoạch, luân chuyển, bổ nhiệm, đề bạt cán bộ, làm giảm tính khách quan, công bằng và hiệu lực lãnh đạo của tổ chức đảng.
Thứ ba, công tác đánh giá cán bộ còn gặp nhiều khó khăn do thiếu tiêu chí, tiêu chuẩn cụ thể cho từng chức danh, nhất là đối với người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, cơ quan, đơn vị.
Thứ tư, cơ chế để nhân dân tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng còn hạn chế, chưa có hình thức hiệu quả để phát huy quyền giám sát, giới thiệu, tiến cử người có đức, có tài; đồng thời chưa có cơ chế định kỳ lấy ý kiến tín nhiệm, chỉ số hài lòng của nhân dân đối với người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp, khiến cho việc phản hồi từ cơ sở chưa thực sự trở thành kênh thông tin quan trọng trong đánh giá cán bộ.
Thứ năm, mặc dù Đảng đã có nhiều quy định, văn bản chỉ đạo rõ ràng về kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực và phòng, chống chạy chức, chạy quyền, song việc tổ chức thực hiện ở một số nơi còn hình thức, thiếu kiên quyết, hiệu lực, hiệu quả chưa cao. Công tác kiểm tra, giám sát nội bộ chưa thường xuyên, thiếu tính chủ động, trong khi chế tài xử lý vi phạm chưa đủ sức răn đe.
Thứ sáu, hệ thống quy định về thẩm quyền, trách nhiệm cá nhân và tập thể trong công tác cán bộ vẫn còn khoảng trống, chưa xác định rõ trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong từng khâu tham mưu, giới thiệu, tiến cử, bố trí, bổ nhiệm cán bộ.
Yêu cầu mới đối với cán bộ trong thời kỳ CNH – HĐH, hội nhập quốc tế và chuyển đổi số
Thứ nhất – Bản lĩnh chính trị kiên định và đạo đức cách mạng trong sáng
Trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế sâu rộng, tác động của chủ nghĩa cá nhân, cơ hội và thực dụng ngày càng mạnh. Do đó, cán bộ ta phải "vững vàng trước mọi cám dỗ", giữ mình trong sạch, trung thành tuyệt đối với Đảng, đặt lợi ích của Nhân dân và quốc gia lên trên hết. Thực tiễn công tác cán bộ giai đoạn 2021–2024 cho thấy, những địa phương có người đứng đầu vững vàng về bản lĩnh, gương mẫu trong đạo đức, quyết liệt trong hành động (như Quảng Ninh, Bắc Ninh, Bình Dương) đều tạo chuyển biến rõ nét trong phát triển kinh tế – xã hội và củng cố niềm tin Nhân dân.
Thứ hai – Năng lực chuyên môn, tư duy chiến lược và kỹ năng quản trị hiện đại
Cán bộ của thời kỳ chuyển đổi số phải hiểu công nghệ, biết phân tích dữ liệu, sử dụng thông tin để hoạch định chính sách, và có khả năng "thiết kế chính sách dựa trên bằng chứng" (evidence-based policy). Hiện nay, hơn 60% cán bộ lãnh đạo cấp sở, ngành ở Việt Nam đã được đào tạo sau đại học, trong đó gần 15% có trình độ chuyên ngành công nghệ thông tin hoặc chuyển đổi số[17]. Các địa phương tiên phong như Đà Nẵng, Quảng Ninh, Thừa Thiên – Huế đã triển khai chính quyền số toàn diện, gắn kết chặt chẽ năng lực số của cán bộ với hiệu quả cung ứng dịch vụ công, thể hiện bước tiến rõ trong "chính quyền kiến tạo, hành động, phục vụ Nhân dân".
Thứ ba – Tinh thần phụng sự và trách nhiệm giải trình
Cán bộ của Đảng phải coi phục vụ Nhân dân là danh dự cao nhất. Hiệu quả công tác không thể đo bằng báo cáo hay khẩu hiệu, mà bằng sự hài lòng của người dân, doanh nghiệp và kết quả cụ thể của công vụ. Do đó, cán bộ thời nay phải chuyển từ tư duy "làm cho dân" sang "phục vụ dân", đặt nhân dân làm trung tâm của mọi quyết sách. Đây là tiêu chí then chốt để đánh giá đạo đức công vụ và hiệu quả thực thi quyền lực chính trị.
Thứ tư – Kỷ luật, tính chuyên nghiệp và trách nhiệm cá nhân rõ ràng
Trong hệ thống chính trị hiện đại, kỷ luật của Đảng là "văn hóa trách nhiệm". Mỗi cán bộ cần tự giác chịu trách nhiệm cá nhân về kết quả công việc, không đổ lỗi, không né tránh. Vì vậy, cần tiếp tục xây dựng môi trường làm việc liêm chính, minh bạch, trong đó trách nhiệm được lượng hóa bằng kết quả, đạo đức được kiểm chứng bằng hành động.
Thứ năm – Tư duy toàn cầu, đạo đức liêm chính và tinh thần đổi mới sáng tạo
Trong bối cảnh kinh tế số và hội nhập quốc tế, cán bộ không chỉ "quản lý trong nước", mà còn phải "đối thoại với thế giới". Họ cần tư duy toàn cầu, khả năng ngoại ngữ, pháp luật quốc tế, văn hóa chính trị quốc tế, và đặc biệt là đạo đức liêm chính – bản lĩnh chính trị vững vàng để bảo vệ lợi ích quốc gia trên bàn cờ toàn cầu. Theo Báo cáo Diễn đàn Cải cách và Phát triển Việt Nam 2024, năng lực hội nhập của đội ngũ cán bộ trẻ Việt Nam đã tăng 15% so với giai đoạn 2016–2020 về khả năng ngoại ngữ, quản lý dự án quốc tế và hợp tác song phương[18]. Đây là tín hiệu tích cực, song cũng đặt ra yêu cầu đào tạo thế hệ cán bộ toàn cầu – am hiểu luật chơi, nhưng giữ vững "chất Đảng" và đạo đức Việt Nam.

Các yếu tố cốt lõi trong xây dựng đội ngũ cán bộ thời kỳ mới
Phẩm chất – Năng lực – Uy tín – Liêm chính – Hiệu quả
Đây là năm trụ cột nền tảng, kết tinh nên hình mẫu "cán bộ thời đại mới" – người vừa có bản lĩnh chính trị, vừa có năng lực quản trị hiện đại, vừa đủ uy tín để quy tụ và dẫn dắt niềm tin xã hội. Năm yếu tố này liên hệ mật thiết với nhau: phẩm chất là gốc, năng lực là thân, uy tín là tán, liêm chính là rễ, và hiệu quả là quả – tạo thành "chu trình đạo đức – năng lực – kết quả" của người cán bộ.
Phẩm chất chính trị, đạo đức là nền tảng vững chắc, là gốc rễ của người cán bộ cách mạng. Cán bộ thời kỳ mới phải tuyệt đối trung thành với Đảng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, có niềm tin sắt son vào con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân đã lựa chọn. Mỗi cán bộ phải đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc, của nhân dân lên trên hết, trước hết; thấm nhuần sâu sắc tinh thần "dĩ công vi thượng", suốt đời phấn đấu, tận tụy, hy sinh cho lý tưởng cách mạng. Cùng với bản lĩnh chính trị là đạo đức trong sáng, lối sống giản dị, tinh thần phục vụ nhân dân vô điều kiện — đó là "cái gốc của người cách mạng" như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn.
Năng lực của cán bộ không chỉ là trình độ, kiến thức hay kỹ năng nghiệp vụ, mà trước hết là tầm nhìn chiến lược, năng lực tư duy đổi mới, khả năng tổ chức thực hiện và dám chịu trách nhiệm. Cán bộ thời kỳ mới phải biết dự báo, định hướng, sáng tạo trong hành động; dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung; dám đột phá ra khỏi tư duy nhiệm kỳ, lợi ích cục bộ để vì sự phát triển lâu dài của Đảng và đất nước.
Uy tín là thước đo toàn diện nhất, phản ánh thực chất phẩm chất, năng lực và nhân cách của cán bộ. Uy tín không thể tự ban phát, mà được xây dựng, bồi đắp bằng hành động, bằng kết quả công việc, bằng niềm tin và sự tín nhiệm của tập thể và nhân dân. Cán bộ có uy tín là người nói đi đôi với làm, lời nói có trọng lượng, việc làm có kết quả, được đồng chí, đồng nghiệp tôn trọng và nhân dân tin yêu.
Liêm chính là "bức tường đạo đức" bảo vệ danh dự và phẩm giá của người cán bộ. Mỗi cán bộ phải luôn giữ mình trong sạch, ngay thẳng, công tâm, không tham nhũng, không vụ lợi, không lợi dụng quyền lực để vun vén cá nhân hay phe nhóm. Liêm chính là biểu hiện cao nhất của lòng tự trọng, là thước đo văn hóa quyền lực trong Đảng cầm quyền. Người cán bộ liêm chính không chỉ giữ mình mà còn có sức cảm hóa, lan tỏa tinh thần liêm chính trong tập thể, trong hệ thống chính trị.
Hiệu quả là tiêu chí kết tinh, là minh chứng sống động nhất của phẩm chất và năng lực. Mỗi cán bộ phải lấy hiệu quả công tác, sản phẩm cụ thể, kết quả kiểm chứng được làm thước đo giá trị cống hiến. Hiệu quả thể hiện ở sự chuyển biến tích cực của tập thể, ở sự hài lòng của nhân dân, ở sức sống của chủ trương, chính sách được triển khai vào thực tiễn. Nói cách khác, hiệu quả chính là "tiếng nói cuối cùng" của năng lực và uy tín cán bộ.
Đề cao nêu gương người đứng đầu – hạt nhân lan tỏa của văn hóa chính trị Đảng
Trong bất kỳ tổ chức nào, người đứng đầu giữ vai trò hạt nhân đoàn kết, là linh hồn của tập thể, là tấm gương soi để cấp dưới noi theo. Bởi vậy, nêu gương của người đứng đầu không chỉ là yêu cầu đạo đức mà còn là nguyên tắc lãnh đạo, là phương thức quan trọng để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Người đứng đầu phải là hình mẫu về bản lĩnh chính trị, đạo đức, lối sống, tác phong công vụ và tinh thần phục vụ nhân dân. Họ phải nói ít, làm nhiều; nói đi đôi với làm; dám chịu trách nhiệm, dám quyết đoán vì lợi ích chung. Trong tổ chức, người đứng đầu càng liêm chính, công tâm, minh bạch thì bộ máy càng vận hành hiệu quả, nội bộ càng đoàn kết, niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân càng được củng cố. Nêu gương không chỉ dừng lại ở đạo đức cá nhân mà phải lan tỏa thành văn hóa nêu gương trong toàn Đảng, nơi mỗi cán bộ, đảng viên đều ý thức rằng hành vi, tác phong, lời nói của mình ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín và danh dự của Đảng.
Trong bối cảnh mới, khi đất nước bước vào thời kỳ phát triển nhanh và hội nhập sâu, yêu cầu đặt ra là phải xây dựng đội ngũ cán bộ có "tâm trong, trí sáng, hoài bão lớn", trong đó người đứng đầu phải thật sự là "người truyền lửa", dẫn dắt tổ chức bằng tầm nhìn, trí tuệ và nhân cách. Đó chính là cội nguồn tạo nên sức mạnh, là nhân tố bảo đảm cho Đảng ta luôn xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam.
Trong thời kỳ phát triển mới, xây dựng đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, liêm chính và hiệu quả không chỉ là nhiệm vụ trung tâm của công tác xây dựng Đảng, mà còn là điều kiện tiên quyết bảo đảm năng lực cầm quyền và khát vọng phát triển đất nước đến năm 2045. Đề cao nêu gương người đứng đầu, kết hợp chuẩn hóa thể chế, chuyên nghiệp hóa công vụ và kiểm soát quyền lực, chính là hướng đi chiến lược để Đảng ta giữ vững vai trò lãnh đạo, xứng đáng với niềm tin của Nhân dân. Đây cũng là nền tảng lý luận – thực tiễn để bước sang Kỳ II: "Xây dựng cơ chế, quy trình công tác cán bộ – bảo đảm phẩm chất, năng lực, uy tín, liêm chính và hiệu quả trong thực tiễn", góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII và hiện thực hóa khát vọng Việt Nam hùng cường, thịnh vượng, hạnh phúc.
TS. Nguyễn Thị Thanh Mai
Vụ Nghiên cứu khoa học tổ chức, cán bộ - Ban Tổ chức Trung ương
Kỳ 2: Xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới: Cần giải pháp gì?
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 175–179
[2] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 269
[3] Nguyễn Phú Trọng, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr. 214
[4] Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, Hà Nội, 2018.
[5] Quy định số 205-QĐ/TW ngày 23/9/2019 của Bộ Chính trị về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền – đặt "hàng rào chế định" ngăn ngừa tha hóa ngay từ khâu nhân sự; Quy định số 41-QĐ/TW ngày 3/11/2021 của Bộ Chính trị về việc miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ – góp phần siết chặt kỷ luật, đề cao trách nhiệm cá nhân và uy tín chính trị; Kết luận số 14-KL/TW ngày 22/9/2021 của Bộ Chính trị về khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung – đóng vai trò như một "van an toàn thể chế", giúp cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích của Đảng và Nhân dân.
[6] Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, Hà Nội, 2018
[7] Tổng kết 20 năm thực hiện Chiến lược cán bộ cho thấy: tỉ lệ cán bộ lãnh đạo, quản lý dưới 40 tuổi công tác ở ban, bộ, ngành là 6,22%; cấp tỉnh là 6,41%; cấp huyện dưới 35 là 6,5%...; cán bộ diện Trung ương quản lý ở địa phương là 10,53%; tỉ lệ cán bộ lãnh đạo nữ diện Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý công tác tại địa phương tăng 2 lần trong 3 nhiệm kỳ qua, từ 10% lên 20%; Tỉ lệ cán bộ lãnh đạo nữ công tác ở các ban, bộ, ngành là 13,03%.
[8] Bộ Chính trị khóa IX đã ban hành Nghị quyết số 42-NQ/TW, ngày 30/11/2004 về công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; đây là bước khởi đầu trong việc tưng bước thực hiện nền nếp công tác quy hoạch cán bộ.
[9] Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 11-NQ/TW, ngày 25/01/2002 về luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý; Kết luận số 24-KL/TW, ngày 05/6/2012 về đẩy mạnh công tác quy hoạch và luân chuyển cán bộ; Kết luận số 146-KL/TW, ngày 04/10/2013 về tăng thêm chức danh phó bí thư, phó chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện để bố trí cán bộ luân chuyển; Kết luận số 36-KL/TW ngày 19/7/2017 và Quy định số 98-QĐ/TW ngày 07/10/2017 về luân chuyển cán bộ; Quy định số 65-QĐ/TW, ngày 28/4/2022 về luân chuyển cán bộ.
[10] Từ khi có Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị về luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, tổng số cán bộ được luân chuyển ở các cấp khoảng gần 20 ngàn lượt cán bộ; luân chuyển kết hợp với bố trí một số chức danh không là người địa phương 3.121 lượt cán bộ (cấp tỉnh: 65 lượt cán bộ; cấp huyện: 2.217 lượt cán bộ; cấp xã: 839 lượt cán bộ). Riêng Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã luân chuyển 119 đồng chí từ Trung ương về công tác tại địa phương (khóa IX có 23 đồng chí, khóa X có 39 đồng chí, khóa XI có 57 đồng chí, khóa XII và khóa XIII có 29 đồng chí (tính đến hết tháng 10/2023)); trong đó, có 44 đồng chí được tham gia vào Ban Chấp hành Trung ương các khóa; 6 đồng chí được bầu vào Bộ Chính trị; 78 đồng chí được bầu cử, bổ nhiệm vào các chức vụ cao hơn.
[11] Chỉ tính trong giai đoạn từ 2005 - 2017, đã có 139.076 cán bộ được đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cao cấp; 1.240 cán bộ đào tạo cử nhân chính trị; bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới theo chức danh cho 1.342 cán bộ là các đồng chí là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương, cán bộ dự nguồn cao cấp, bí thư cấp ủy cấp huyện. Trong giai đoạn 2008 - 2017, đã đưa đi học tập, nghiên cứu ở nước ngoài theo Đề án 165 là 16.505 cán bộ với tổng kinh phí hơn 2.500 tỷ đồng.
[12] Nhiệm kỳ khóa XI, Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Quyết định số 244-QĐ/TW, ngày 09/6/2014 về Quy chế bầu cử trong Đảng. Quy chế xác định rõ trách nhiệm của các cấp ủy viên cấp triệu tập đại hội khi không được cấp ủy đương nhiệm giới thiệu thì ở đại hội không được đề cử người ngoài danh sách do cấp ủy giới thiệu, không được ứng cử và không được nhận đề cử; quy định số dư trong danh sách bầu cử không quá 30% so với số lượng cần bầu; khi số dư quá 30% thì lấy ý kiến của đại biểu đại hội đối với những người tự ứng cử, được đại hội đề cử và lấy từ cao xuống thấp, bảo đảm số dư không quá 30% để khắc phục tình trạng phân tán, bầu thiếu số lượng.
[13] Nhiệm kỳ khóa XII Bộ Chính trị, Ban Bí thư và cấp ủy các cấp đã tiến hành kiểm tra 26.201 tổ chức đảng (tăng 59% so với nhiệm kỳ khóa XI) trong đó Bộ Chính trị, Ban Bí thư kiểm tra 36 cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc Trung ương; cấp ủy các cấp kiểm tra 183.993 tổ chức đảng và 528.652 đảng viên (tăng 41,6% tổ chức và 27,5% so với nhiệm kỳ khóa XI). Nhiệm kỳ khóa XIII, tính đến tháng 9/2023: Bộ Chính trị, Ban Bí thư và cấp ủy các cấp đã tiến hành kiểm tra 141.194 tổ chức đảng; trong đó Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã kiểm tra 53 cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc Trung ương; cấp ủy các cấp kiểm tra 141.141 tổ chức đảng, 780.589 đảng viên. (Vụ V, footnote 27).
[14] Tỉ lệ cán bộ cấp chiến lược dưới 45 tuổi, chiếm 7,18%; tỉ lệ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh diện ban thường vụ quản lý dưới 40 tuổi là 1,81%, diện ban chấp hành quản lý là 7,85%.
[15] Cán bộ lãnh đạo, quản lý là nữ từ cấp vụ trở lên ở Trung ương chiếm 17,54%; cấp tỉnh chiếm 12,28%, cấp huyện chiếm 9,98%, cấp xã chiếm 10,37% (Nghị quyết 11-NQ/TW, của Bộ Chính trị đề ra là 25%).
[16] Cán bộ, công chức, viên chức là người dân tộc thiểu số ở Trung ương khoảng 5%, cấp tỉnh là 14,7%; trong đó cán bộ lãnh đạo ở Trung ương chỉ có 1,42%, ở cấp tỉnh 7,35%. Cán bộ người dân tộc thiểu số diện Trung ương quản lý công tác ở địa phương có xu hướng giảm từ 30% nhiệm kỳ 2000-2005, 33% nhiệm kỳ 2010-2015 ; 27% nhiệm kỳ 2015-2020.
[17] Bộ Nội vụ, Niên giám Thống kê cán bộ, công chức, viên chức Việt Nam năm 2024, Hà Nội, 2024.
[18] Diễn đàn Cải cách và Phát triển Việt Nam (VRDF), Báo cáo Phát triển Việt Nam 2024: Năng lực hội nhập trong kỷ nguyên số, Hà Nội, 2024