Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
Phát biểu tại phiên họp, đại diện Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, tỉnh Nghệ An có nhiều tiềm năng, lợi thế, hội tụ nhiều yếu tố về điều kiện thuận lợi để phát triển như nằm ở vị trí trung tâm vùng Bắc Trung Bộ kết nối hai miền Bắc - Nam, trong hành lang kinh tế Đông – Tây nối liền Myanmar – Thái Lan – Lào – Việt Nam theo Quốc lộ 7 thông ra biển Đông qua cảng Cửa Lò.
Hệ thống cơ sở hạ tầng của Nghệ An đầy đủ các loại hình giao thông đường bộ, đường sắt, cảng hàng không, đường biển và đường thuỷ nội địa. Tuy nhiên, Nghệ An vẫn chưa tận dụng được lợi thế của mình để phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội chưa hoàn chỉnh, thiếu đồng bộ, nhất là hạ tầng giao thông trọng yếu; tốc độ đô thị hoá chậm; khu vực miền Tây còn nhiều khó khăn.
Vì vậy, việc xây dựng Nghị quyết của Quốc hội về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù là cần thiết nhằm thể chế hoá đầy đủ Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 18/7/2023 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển tỉnh Nghệ An đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; phát huy mọi tiềm năng, lợi thế để phát triển tỉnh Nghệ An nhanh và bền vững; hướng tới là trung tâm của khu vực Bắc Trung Bộ về thương mại, logistics, y tế, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, công nghiệp và nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao;…
Tại phiên họp, các thành viên Hội đồng thẩm định đã cho ý kiến cụ thể về từng nhóm chính sách. Cụ thể, đối với Chính sách 1 (Nhóm Chính sách phát triển kinh tế biển), đại diện Bộ Ngoại giao cơ bản nhất trí với đề xuất chỉ lấy ý kiến của Bộ Quốc phòng và Bộ Tài nguyên và Môi trường đối với thủ tục giải quyết hồ sơ đề nghị giao khu vực biển cho nhà đầu tư trong nước thực hiện dự án nuôi trồng thuỷ sản nhằm tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân có nhu cầu sử dụng khu vực biển được tiến hành hoạt động trong thời gian nhanh nhất. Ngoài ra, đồng chí đề nghị tỉnh rà soát, bảo đảm công tác giao và cấp phép khu vực biển để nuôi trồng thuỷ sản phù hợp với quy hoạch về không gian biển và bảo đảm yếu tố về bảo vệ môi trường.
Đối với Chính sách 5 (Nhóm chính sách quản lý quy hoạch đô thị, tài nguyên và môi trường) về kinh doanh tín chỉ các-bon rừng, hiện nay luật phát Việt Nam chưa có quy định cụ thể về chuyển nhượng, mua bán, trao đổi tín chỉ các-bon rừng. Vì vậy, đồng chí đề nghị tỉnh Nghệ An tham khảo thêm ý kiến của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; đồng thời cân nhắc và có đánh giá kỹ đối với đề xuất này để bảo đảm tính khả thi của chính sách.
Cơ bản thống nhất với các chính sách, đại diện Bộ Quốc phòng đề nghị UBND tỉnh Nghệ An nghiên cứu, tổ chức khảo sát, đánh giá tác động bảo đảm tính khách quan, toàn diện giữa phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh. Đồng thời, đồng chí đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu thêm các cơ chế, chính sách đặc thù để phát triển khu vực biên giới, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân đã di cư tự do có nơi cư trú hợp pháp, sinh kế bền vững, có đất sản xuất, được tiếp cận các dịch vụ cơ bản và đảm bảo an sinh xã hội theo quan điểm của Nghị quyết số 22/NQ-CP ngày 01/3/2020 của Chính phủ về ổn định dân di cư tự do và quản lý, sử dụng đất có nguồn gốc từ nông, lâm trường.
Ngoài ra, các thành viên Hội đồng thẩm định còn cho một số ý kiến khác như: đánh giá tác động đầy đủ, rõ ràng cơ sở đề xuất các chính sách mới; làm rõ việc bổ sung thêm 01 Phó Chủ tịch UBND tỉnh so với quy định hiện hành để phụ trách địa bàn vùng miền núi; hồ sơ, trình tư, thủ tục xây dựng Nghị quyết của Quốc hội;…
Sau khi nghe các ý kiến, Chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An Nguyễn Đức Trung nhấn mạnh, Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị là cơ sở pháp lý quan trọng để địa phương thực hiện các mục tiêu phát triển. Theo đó, các chính sách tại đề nghị xây dựng Nghị quyết của Quốc hội về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển của tỉnh Nghệ An bám sát chỉ tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ tại Nghị quyết số 39-NQ/TW để vừa đảm bảo tính đặc thù cho địa phương vừa không “phá vỡ” sự đồng bộ với hệ thống pháp luật. Ngoài ra, lãnh đạo tỉnh đã cho ý kiến cụ thể đối với từng chính sách và cho biết sẽ tiếp tục phối hợp cơ quan chủ trì soạn thảo rà soát các nội dung.
Phát biểu kết luận, Thứ trưởng Trần Tiến Dũng đánh giá hồ sơ đề nghị xây dựng Nghị quyết được chuẩn bị công phu, thể hiện đầy đủ các cơ sở chính trị, pháp lý. Theo đó, tỉnh Nghệ An có nhiều thuận lợi hơn các địa phương khác khi đã có Nghị quyết số 36/2021/QH15 của Quốc hội. Tuy nhiên, đặc thù dân số đông, diện tích rộng lớn phần nào đã gây ra khó khăn cho tỉnh Nghệ An trong thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế và các chính sách an sinh xã hội.
Để tạo “sức bật” cho tỉnh, Thứ trưởng đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo tiếp tục nghiên cứu, đưa ra những chính sách phát triển đặc thù hơn nữa; đồng thời xây dựng thêm cơ chế thu hút doanh nghiệp vào các ngành thế mạnh như: logistics, du lịch biển, công nghiệp hàng hải… Bên cạnh đó, cơ quan chủ trì soạn thảo cần tiếp tục rà soát chính sách đảm bảo phù hợp với các điều ước quốc tế; điều chỉnh, tổ chức lại các nhóm chính sách cho phù hợp; tập trung thể hiện chi tiết hơn các quy định về phân cấp, phân quyền trong tổ chức bộ máy, biên chế…
Để đạt được mục tiêu xây dựng và phát triển tỉnh Nghệ An như mục tiêu đề ta tại Nghị quyết 39-NQ/TW của Bộ Chính trị, tỉnh Nghệ An đề xuất 5 nhóm lĩnh vực với tổng số 18 chính sách, gồm: quản lý tài chính - ngân sách nhà nước (05 chính sách); quản lý đô thị, tài nguyên và môi trường (04 chính sách); quản lý đầu tư (04 chính sách); phát triển kinh tế biển (02 chính sách); tổ chức bộ máy và biên chế (03 chính sách).
Lê Sơn