Các ‘ông lớn’ sẽ thu hẹp chính sách tiền tệ nới lỏng?
(Chinhphu.vn) - Do kinh tế tăng thấp, đặc biệt là lạm phát tăng chậm và vẫn thấp xa mục tiêu đề ra, phần lớn các nước phát triển chưa thể rút lui chính sách tiền tệ nới lỏng, vốn được áp dụng trong những năm qua.
Tính đến nay, đã 10 năm trôi qua, tình hình kinh tế toàn cầu vẫn ảm đạm, cả GDP, hoạt động thương mại và đầu tư đều tăng thấp. Vốn là những nền kinh tế lớn và dẫn dắt tăng trưởng kinh tế toàn cầu, đà phục hồi chậm chạp tại các nước phát triển đang ảnh hưởng xấu đến triển vọng kinh tế toàn cầu, nhu cầu tăng chậm, tác động tiêu cực đến hoạt động xuất khẩu của phần còn lại trên thế giới.
Theo báo cáo tạm thời về triển vọng kinh tế toàn cầu do Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) công bố vào ngày 7/3/2017, GDP toàn cầu năm 2018 dự báo tăng 3,5-3,6%, một mức tăng khiêm tốn từ kết quả tăng 3,0% vào năm 2016 và 3,3% trong năm nay, thấp hơn kết quả tăng trưởng trung bình 4%/năm trong hai thập kỷ trước khi xảy ra khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008. Tăng trưởng thương mại quốc tế sau năm 2012 chỉ tương đương với tăng trưởng GDP, trái với kết quả tăng gấp 2 lần GDP trong hai thập kỷ trước khủng hoảng.
Theo đánh giá của IMF, sau khủng hoảng tài chính toàn cầu, các yếu tố năng suất tổng thể (TFP - thước đo hiệu quả sử dụng vốn và lao động) bắt đầu tăng chậm dần với tốc độ tăng trưởng thấp xa thời kỳ trước khủng hoảng, làm tăng thêm những khó khăn về cơ cấu, vốn đã tồn tại trước khủng hoảng và TFP tiếp tục ỳ ạch cho đến nay. Trong đó, đầu tư yếu ớt tại các nước phát triển là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến xu hướng suy giảm này. Theo tính toán của Thời báo Tài chính, dòng vốn đầu tư quốc tế đã đạt 4.300 tỷ USD vào năm 2016, nhưng chỉ bằng 30% so với đỉnh điểm 12.400 tỷ USD đạt được vào năm 2007.
Liên quan đến vấn đề này, trong báo cáo “Đầu tư và tăng trưởng kinh tế tại các nước phát triển” do NHTW châu Âu (ECB) công bố vào ngày 23/8/2017, các chuyên gia nghiên cứu cho rằng, mặc dù năng suất tăng chậm tại các nước phát triển bắt đầu xuất hiện từ đầu thế kỷ XXI này, nhưng không thể giải thích được xu hướng phục hồi yếu ớt và chậm chạp hiện nay.
Cụ thể là, năng suất thấp còn bắt nguồn vào tình hình thực tế tại mỗi nước, bao gồm mô hình tăng trưởng, tình trạng thất nghiệp, khả năng cung ứng lao động và vấn đề nhân chủng học. Trong đó, nhiều yếu tố không mang tính chu kỳ, nên chính sách tiền tệ mở rộng không thể phát huy tác dụng. Vì thế, chính sách tiền tệ cần quan tâm đến nhóm yếu tố nằm trong cơ cấu cung ứng, như sự tham gia của người lao động hay năng suất.
Do kinh tế tăng thấp, đặc biệt là lạm phát tăng chậm và vẫn thấp xa mục tiêu đề ra, phần lớn các nước phát triển chưa thể rút lui chính sách tiền tệ nới lỏng, vốn được áp dụng trong những năm qua.
Tại Mỹ, mặc dù kinh tế phục hồi khá bền vững và GDP quý II/2017 tăng cao nhất kể từ sau khủng hoảng, nhưng USD vẫn mất giá mạnh so với nhiều đồng tiền chủ chốt khác. Sau các đợt tăng lãi suất trong năm nay, giá USD không tăng vững mà giảm theo xu hướng dài hạn, trái với mục tiêu của Fed. Xu hướng giảm giá của USD cho thấy, Tổng thống Donald Trump chưa thể thực hiện được những cam kết mở rộng tài khóa, ảnh hưởng xấu đến tâm trạng của các doanh nghiệp và USD mất giá.
Trong khi chính sách tài khóa mở rộng và các kế hoạch thúc đẩy đầu tư hạ tầng vẫn chỉ là chủ trương của chính quyền mới tại Mỹ, một vấn đề đang nổi lên trên chính trường Mỹ sau cảnh báo do Công ty Xếp hạng tín nhiệm Standard & Poor’s đưa ra vào ngày 30/8 vừa qua, kinh tế Mỹ sẽ hứng chịu những hậu quả khôn lường nếu Nhà Trắng và các nghị sĩ không đạt được thỏa thuận giữ cho Chính phủ mở cửa và ngăn chặn nguy cơ vỡ nợ.
Theo nhận định của các chuyên gia tài chính Phố Wall, tại cuộc họp vào ngày 5/9 tới đây, Quốc hội Mỹ sẽ thống nhất được một kế hoạch ngân sách và sự đồng thuận nâng trần nợ công vốn đã chạm mức trần 19.900 USD từ tháng 3 năm nay. Từ đó đến nay, Bộ trưởng Tài chính Steven Mnuchin đã phải áp dụng một số biện pháp đặc biệt trong ngắn hạn để Chính phủ không bị rơi vào tình trạng vỡ nợ, trong khi đợi quyết định nâng trần nợ của Quốc hội.