• An Giang
  • Bình Dương
  • Bình Phước
  • Bình Thuận
  • Bình Định
  • Bạc Liêu
  • Bắc Giang
  • Bắc Kạn
  • Bắc Ninh
  • Bến Tre
  • Cao Bằng
  • Cà Mau
  • Cần Thơ
  • Điện Biên
  • Đà Nẵng
  • Đà Lạt
  • Đắk Lắk
  • Đắk Nông
  • Đồng Nai
  • Đồng Tháp
  • Gia Lai
  • Hà Nội
  • Hồ Chí Minh
  • Hà Giang
  • Hà Nam
  • Hà Tây
  • Hà Tĩnh
  • Hòa Bình
  • Hưng Yên
  • Hải Dương
  • Hải Phòng
  • Hậu Giang
  • Khánh Hòa
  • Kiên Giang
  • Kon Tum
  • Lai Châu
  • Long An
  • Lào Cai
  • Lâm Đồng
  • Lạng Sơn
  • Nam Định
  • Nghệ An
  • Ninh Bình
  • Ninh Thuận
  • Phú Thọ
  • Phú Yên
  • Quảng Bình
  • Quảng Nam
  • Quảng Ngãi
  • Quảng Ninh
  • Quảng Trị
  • Sóc Trăng
  • Sơn La
  • Thanh Hóa
  • Thái Bình
  • Thái Nguyên
  • Thừa Thiên Huế
  • Tiền Giang
  • Trà Vinh
  • Tuyên Quang
  • Tây Ninh
  • Vĩnh Long
  • Vĩnh Phúc
  • Vũng Tàu
  • Yên Bái

Căn cứ đánh giá hồ sơ dự thầu

(Chinhphu.vn) – Việc đánh giá hồ sơ dự thầu phải căn cứ vào tiêu chuẩn đánh giá hồ sơ dự thầu và các yêu cầu khác trong hồ sơ mời thầu, căn cứ vào hồ sơ dự thầu đã nộp, các tài liệu giải thích, làm rõ hồ sơ dự thầu của nhà thầu để bảo đảm lựa chọn được nhà thầu có đủ năng lực và kinh nghiệm, có giải pháp khả thi để thực hiện gói thầu.

05/03/2019 07:02

Ông Phạm Nguyên Trung (Lai Châu) đề nghị cơ quan chức năng giải đáp vướng mắc sau:

Theo quy định của hồ sơ mời thầu tư vấn (1 giai đoạn 2 túi hồ sơ) thì nhà thầu phải cung cấp 1 hợp đồng tương tự thực hiện công việc A và công việc B có giá trị lớn hơn 1 tỷ đồng đã hoàn thành trong khoảng thời gian từ năm 2015 trở lại đây. Phương pháp đánh giá hồ sơ dự thầu theo phương pháp chấm điểm tổng hợp kỹ thuật và giá.

Nhà thầu 1 cung cấp 2 hợp đồng, trong đó 1 hợp đồng thực hiện công việc A có giá trị 1,5 tỷ đồng đã thực hiện hoàn thành năm 2016 và 1 hợp đồng thực hiện công việc B có giá trị 1,2 tỷ đồng đã thực hiện hoàn thành năm 2017.

Nhà thầu 2 cung cấp 2 hợp đồng, trong đó 1 hợp đồng thực hiện công việc cả A và B có giá trị 0,5 tỷ đồng đã hoàn thành năm 2016 và 1 hợp đồng thực hiện công việc cả A và B có giá trị 0,5 tỷ đồng đã hoàn thành năm 2017.

Tổ chuyên gia có hai ý kiến:

- Về nhà thầu 1:

Ý kiến 1: Chấp thuận hai hợp đồng nêu trên vì đều có giá trị lớn hơn 1 tỷ đồng theo quy định của hồ sơ mời thầu và thực tế nhà thầu cũng đã thực hiện được cả công việc A và công việc B (mặc dù là hai hợp đồng với 2 chủ đầu tư khác nhau).

Ý kiến 2: Không chấp thuận 2 hợp đồng trên vì không đáp ứng tiêu chí "thực hiện được cả công việc A và công việc B".

- Về nhà thầu 2:

Ý kiến 1: Chấp thuận hai hợp đồng nêu trên và cộng gộp giá trị thành 1 hợp đồng tương tự vì có tính chất công việc tương tự theo quy định của hồ sơ mời thầu và thực tế nhà thầu cũng đã thực hiện được cả công việc A và công việc B (mặc dù giá trị mỗi hợp đồng không bảo đảm).

Ý kiến 2: Không chấp thuận 2 hợp đồng trên vì không đáp ứng tiêu chí "có giá trị từ 1 tỷ đồng trở lên".

Ông Trung hỏi, ý kiến nào nêu trên là hợp lý?

Bộ Kế hoạch và Đầu tư trả lời vấn đề này như sau:

Theo Khoản 1, Điều 15 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP của Chính phủ quy định việc đánh giá hồ sơ dự thầu phải căn cứ vào tiêu chuẩn đánh giá hồ sơ dự thầu và các yêu cầu khác trong hồ sơ mời thầu, căn cứ vào hồ sơ dự thầu đã nộp, các tài liệu giải thích, làm rõ hồ sơ dự thầu của nhà thầu để bảo đảm lựa chọn được nhà thầu có đủ năng lực và kinh nghiệm, có giải pháp khả thi để thực hiện gói thầu.

Đối với vấn đề của ông Trung, việc đánh giá hồ sơ dự thầu được thực hiện theo quy định nêu trên.

Chinhphu.vn