Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
Căn cứ khoản 3 Điều 13 Thông tư số 26/2024/TT-BTNMT ngày 26/11/2024, khi thành lập bản đồ địa chính, đo đạc lại bản đồ địa chính, ranh giới mốc giới thửa đất đã được thể hiện trong bản mô tả ranh giới mốc giới. Trường hợp không ký được giáp ranh cũng đã được niêm yết tại xã phường kèm theo bản đồ địa chính.
Ông Nguyễn Thìn Trung (Đồng Nai) hỏi, vậy khi thực hiện hồ sơ cấp đổi (cấp đổi riêng lẻ) cho người dân (trường hợp chủ sử dụng đất không yêu cầu đo đạc lại) có cần phải thực hiện ký lại bản mô tả hay không?
Đối với trường hợp diện tích thửa đất tăng thêm nhiều so với Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (phần diện tích này không phải do chuyển nhượng hoặc tặng cho), bản mô tả ranh giới mốc giới cũng đã được lập và niêm yết tại xã phường và có bản lưu tại Văn phòng Đăng ký đất đai khi bàn giao bản đồ địa chính thì có cần làm thêm thủ tục gì khác không (ví dụ: biên bản xác minh hiện trạng...)?
Đối với trường hợp sau khi cấp Giấy chứng nhận xảy ra tranh chấp khiếu nại liên quan đến ranh giới thì trách nhiệm thuộc về ai (đơn vị đo đạc thành lập bản đồ hay Văn phòng Đăng ký đất đai)?
Bộ Nông nghiệp và Môi trường trả lời vấn đề này như sau:
Theo quy định thì Bản mô tả ranh giới, mốc giới thửa đất lập theo quy định khoản 3 Điều 13 Thông tư số 26/2024/TT-BTNMT là căn cứ để nghiệm thu bản đồ địa chính hoàn thành. Khi bản đồ địa chính đã được đưa vào sử dụng thì trích lục bản đồ địa chính để sử dụng cho các mục đích khác mà không phải thực hiện lại các thủ tục làm căn cứ nghiệm thu bản đồ địa chính trước đó.
Trường hợp có diện tích tăng thêm thì thực hiện thủ tục cho từng trường hợp có diện tích tăng thêm cụ thể (thay đổi và không thay đổi ranh giới). Trường hợp có thay đổi ranh giới thì thực hiện việc đo đạc chỉnh lý bản đồ địa chính.
Pháp luật đã có quy định việc giải quyết tranh chấp đất đai, giải quyết khiếu nại đất đai tại Điều 236 và Điều 237 Luật Đất đai 2024.
Chinhphu.vn