Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
Nghị định 245/2025/NĐ-CP sửa đổi quy định rút ngắn thời gian đưa chứng khoán vào giao dịch trên thị trường sau khi Sở giao dịch chứng khoán đã chấp thuận niêm yết chứng khoán từ 90 ngày xuống còn 30 ngày.
Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 245/2025/NĐ-CP ngày 11/9/2025 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 155/2020/NĐ-CP ngày 31/12/2020 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Chứng khoán.
Siết chặt điều kiện chào bán trái phiếu ra công chúng
Một trong những điểm đáng chú ý của Nghị định số 245/2025/NĐ-CP là siết chặt hơn điều kiện chào bán trái phiếu ra công chúng, bổ sung các tiêu chí an toàn tài chính.
Theo quy định hiện hành tại Điều 19 Nghị định số 155/2020/NĐ-CP, để chào bán trái phiếu ra công chúng, tổ chức phát hành hoặc trái phiếu đăng ký chào bán chỉ buộc phải có xếp hạng tín nhiệm nếu tổng giá trị trái phiếu huy động trong mỗi 12 tháng lớn hơn 500 tỉ đồng và lớn hơn 50% vốn chủ sở hữu; hoặc tổng dư nợ trái phiếu lớn hơn 100% vốn chủ sở hữu. Ngoài quy định trên, không có bất kỳ hạn chế nào về việc doanh nghiệp phải đáp ứng tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu để có thể phát hành trái phiếu ra công chúng. Điều này dẫn đến việc nhiều doanh nghiệp phát hành trái phiếu nhưng không bảo đảm được khả năng thanh toán, gây thiệt hại cho nhà đầu tư.
Do vậy, Nghị định số 245/2025/NĐ-CP đã sửa đổi khoản 2 Điều 19 Nghị định số 155/2020/NĐ-CP như sau: Tổ chức phát hành hoặc trái phiếu đăng ký chào bán phải được xếp hạng tín nhiệm bởi tổ chức xếp hạng tín nhiệm độc lập, ngoại trừ trường hợp trái phiếu phát hành của tổ chức tín dụng hoặc trái phiếu được tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức tài chính ở nước ngoài, tổ chức tài chính quốc tế bảo lãnh thanh toán toàn bộ gốc và lãi trái phiếu. Tổ chức xếp hạng tín nhiệm không phải là người có liên quan của tổ chức phát hành.
Ngoài ra, Nghị định số 245/2025/NĐ-CP cũng bổ sung các khoản 3, 4, 5, 6, 7 vào sau khoản 2 Điều 19 về điều kiện chào bán trái phiếu ra công chúng như sau:
"3. Có Đại diện người sở hữu trái phiếu theo quy định tại Điều 24 Nghị định này.
4. Tổ chức phát hành có nợ phải trả (bao gồm giá trị trái phiếu dự kiến phát hành) không vượt quá 05 lần vốn chủ sở hữu của tổ chức phát hành theo báo cáo tài chính kỳ kế toán gần nhất được kiểm toán, ngoại trừ tổ chức phát hành là doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp phát hành trái phiếu để thực hiện dự án bất động sản, tổ chức tín dụng, doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp tái bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm, công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán.
5. Nợ phải trả theo quy định tại khoản 4 Điều này không bao gồm giá trị trái phiếu dự kiến phát hành để cơ cấu lại khoản nợ. Trường hợp phát hành trái phiếu ra công chúng để cơ cấu lại khoản nợ, doanh nghiệp không được thay đổi mục đích sử dụng vốn để cơ cấu lại khoản nợ.
6. Trường hợp doanh nghiệp phát hành trái phiếu ra công chúng cho nhiều đợt chào bán, giá trị trái phiếu dự kiến phát hành từng đợt theo mệnh giá không lớn hơn vốn chủ sở hữu.
7. Trái phiếu phát hành được tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức tài chính ở nước ngoài, tổ chức tài chính quốc tế bảo lãnh thanh toán toàn bộ gốc và lãi trái phiếu được ngoại trừ điều kiện quy định tại khoản 4, khoản 6 Điều này."
Sửa đổi điều kiện chào bán trái phiếu ra công chúng tại Việt Nam của tổ chức tài chính quốc tế
Nghị định 245/2025/NĐ-CP cũng sửa đổi Điều 26 về điều kiện chào bán trái phiếu ra công chúng tại Việt Nam của tổ chức tài chính quốc tế như sau:
1. Tổ chức phát hành là tổ chức tài chính quốc tế theo quy định của pháp luật.
2. Trái phiếu chào bán là trái phiếu có kỳ hạn tối thiểu 05 năm.
Có phương án phát hành và phương án sử dụng toàn bộ số tiền thu được từ đợt chào bán để đầu tư cho các dự án tại Việt Nam hoặc đầu tư góp vốn, mua cổ phần, trái phiếu, cho vay lại các doanh nghiệp được thành lập và hoạt động tại Việt Nam. Có cam kết thực hiện nghĩa vụ của tổ chức phát hành đối với nhà đầu tư về điều kiện phát hành, thanh toán, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư và các điều kiện khác. Tổ chức phát hành phải mở tài khoản phong tỏa nhận tiền mua trái phiếu của đợt chào bán. Có cam kết thực hiện niêm yết trái phiếu sau khi kết thúc đợt chào bán.
Rút ngắn thời gian IPO và đưa cổ phiếu lên sàn
Nghị định 245/2025/NĐ-CP bổ sung Điều 111a về đăng ký niêm yết cổ phiếu đồng thời với chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng của công ty cổ phần. Việc cổ phiếu được chào bán lần đầu ra công chúng sẽ được niêm yết ngay sau khi kết thúc đợt chào bán nhằm đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư tham gia mua cổ phiếu được chào bán, đảm bảo sự thành công của hoạt động huy động vốn qua chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng.
Đối với quy trình chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng (IPO) đồng thời với đăng ký niêm yết cổ phiếu, Nghị định 245/2025/NĐ-CP quy định theo hướng Sở giao dịch chứng khoán xem xét hồ sơ đăng ký niêm yết cổ phiếu của doanh nghiệp đồng thời với quá trình Ủy ban Chứng khoán nhà nước xem xét hồ sơ IPO. Sau khi hoàn thành đợt chào bán cổ phiếu (theo báo cáo kết quả chào bán doanh nghiệp gửi cho UBCKNN), doanh nghiệp gửi Sở giao dịch chứng khoán thông tin cập nhật Bản cáo bạch và Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc giấy tờ pháp lý có giá trị tương đương, trong đó cập nhật vốn điều lệ của tổ chức đăng ký niêm yết sau khi chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng để Sở giao dịch chứng khoán xem xét, cấp phép niêm yết.
Ngoài ra, Nghị định sửa đổi còn quy định rút ngắn thời gian đưa chứng khoán vào giao dịch trên thị trường sau khi Sở giao dịch chứng khoán đã chấp thuận niêm yết chứng khoán từ 90 ngày xuống còn 30 ngày. Các quy định này dự kiến sẽ giúp quá trình đưa chứng khoán vào niêm yết, giao dịch ngắn hơn từ 3 - 6 tháng so với hiện nay, bảo vệ tốt hơn quyền lợi của nhà đầu tư trong việc sớm đưa chứng khoán vào giao dịch trên thị trường, tăng tính hấp dẫn của các đợt IPO đến các nhà đầu tư.
Bảo đảm quyền cổ đông ngoại trong mua, bán cổ phiếu
Một thay đổi lớn khác của Nghị định 245/2025/NĐ-CP là việc bãi bỏ quy định cho phép Đại hội đồng cổ đông, Điều lệ công ty đại chúng được quyết định tỷ lệ sở hữu nước ngoài tối đa thấp hơn mức quy định của pháp luật và cam kết quốc tế. Đối với công ty đại chúng đã thông báo tỷ lệ sở hữu nước ngoài tối đa theo điểm e khoản 1 Điều 139 Nghị định số 155/2020/NĐ-CP sẽ được tiếp tục giữ nguyên hoặc được thay đổi tỷ lệ này theo hướng tăng lên để tiệm cận dần về mức quy định của pháp luật.
Đồng thời, Nghị định cũng bổ sung điều khoản chuyển tiếp quy định thời hạn các công ty đại chúng phải hoàn thành thủ tục thông báo tỷ lệ sở hữu nước ngoài tối đa. Cụ thể: Công ty đại chúng chưa thực hiện thủ tục thông báo tỷ lệ sở hữu nước ngoài tối đa có trách nhiệm hoàn tất thông báo tỷ lệ sở hữu nước ngoài tối đa trong thời hạn 12 tháng kể từ ngày Nghị định 245/2025/NĐ-CP có hiệu lực thi hành.
Việc sửa đổi, bổ sung các quy định trên nhằm mục đích bảo đảm hơn quyền của cổ đông nước ngoài trong việc mua, bán cổ phiếu trên thị trường chứng khoán; tuân thủ mức độ mở cửa thị trường tối đa theo pháp luật đầu tư, cũng như giảm rủi ro cho nhà đầu tư nước ngoài khi xảy ra các sự kiện ảnh hưởng đến doanh nghiệp.
Nghị định số 245/2025/NĐ-CP có hiệu lực kể từ ngày ký (11/9/2025).
Chính phủ ban hành Nghị định số 243/2025/NĐ-CP ngày 11/9/2025 quy định chi tiết một số điều của Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP).
Nghị định nêu rõ quy định mới về thủ tục quyết định chủ trương đầu tư dự án PPP và thẩm quyền, trình tự phê duyệt dự án PPP để phù hợp với quy định mới về phân cấp thẩm quyền quyết định chủ trương tại Luật Đầu tư theo phương thức PPP.
Thủ tục quyết định chủ trương đầu tư dự án PPP
Cụ thể, Nghị định 243/2025/NĐ-CP quy định hồ sơ, thủ tục, nội dung thẩm định báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án PPP thuộc thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư của Quốc hội thực hiện theo quy định của Chính phủ quy định về trình tự, thủ tục thẩm định dự án quan trọng quốc gia.
Thủ tục quyết định chủ trương đầu tư dự án PPP nhà máy điện hạt nhân được thực hiện như sau:
a- Đơn vị chuẩn bị dự án PPP lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi làm cơ sở để bộ, cơ quan trung ương, cơ quan khác, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình Thủ tướng Chính phủ;
b- Thủ tướng Chính phủ thành lập Hội đồng thẩm định nhà nước hoặc giao cơ quan chủ trì thẩm định báo cáo nghiên cứu tiền khả thi theo quy định của pháp luật về đầu tư công;
c- Hội đồng thẩm định nhà nước hoặc cơ quan chủ trì thẩm định báo cáo nghiên cứu tiền khả thi lập báo cáo thẩm định, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định;
d- Thủ tướng Chính phủ quyết định chủ trương đầu tư dự án.
Thủ tục quyết định chủ trương đầu tư dự án PPP thuộc thẩm quyền của Bộ trưởng, người đứng đầu cơ quan trung ương, cơ quan khác, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh:
a- Đơn vị chuẩn bị dự án PPP lập báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư trình Bộ trưởng, người đứng đầu cơ quan trung ương, cơ quan khác, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định;
b- Bộ trưởng, người đứng đầu cơ quan trung ương, cơ quan khác, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giao một đơn vị trực thuộc thực hiện nhiệm vụ thẩm định báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư;
c- Đơn vị thẩm định dự án lập báo cáo thẩm định gửi đơn vị chuẩn bị dự án PPP;
d- Đơn vị chuẩn bị dự án PPP hoàn chỉnh hồ sơ trình Bộ trưởng, người đứng đầu cơ quan trung ương, cơ quan khác, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh;
đ- Bộ trưởng, người đứng đầu cơ quan trung ương, cơ quan khác quyết định chủ trương đầu tư dự án thuộc phạm vi quản lý theo quy định tại khoản 3 Điều 12 của Luật PPP;
e- Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định chủ trương đầu tư dự án thuộc phạm vi quản lý của địa phương theo quy định tại khoản 4 Điều 12 của Luật PPP hoặc quyết định chủ trương đầu tư dự án thuộc phạm vi quản lý của địa phương theo quy định tại khoản 5 Điều 12 của Luật PPP.
Nghị định nêu rõ, đối với dự án quy định tại khoản 3 Điều 11 của Luật PPP cần thực hiện thủ tục quyết định chủ trương đầu tư để làm căn cứ quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng đất lúa theo quy định của pháp luật về đất đai, quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng đất rừng theo quy định của pháp luật về lâm nghiệp và thực hiện các thủ tục khác theo pháp luật có liên quan thì việc lập, thẩm định báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư, quyết định chủ trương đầu tư thực hiện theo quy định về thủ tục quyết định chủ trương đầu tư dự án PPP thuộc thẩm quyền của Bộ trưởng, người đứng đầu cơ quan trung ương, cơ quan khác, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
Đối với dự án PPP thuộc phạm vi quản lý của nhiều cơ quan có thẩm quyền mà có yêu cầu sử dụng vốn nhà nước tham gia dự án PPP thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh của các địa phương báo cáo Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trước khi thống nhất giao một địa phương làm cơ quan có thẩm quyền theo quy định. Trường hợp kinh phí bồi thường, giải phóng mặt bằng, hỗ trợ, tái định cư; hỗ trợ xây dựng công trình tạm được bố trí từ nguồn ngân sách địa phương của từng địa phương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh của các địa phương thông nhất, báo cáo Hội đồng nhân dân cấp tỉnh việc phân chia dự án thành các dự án thành phần bồi thường, giải phóng mặt bằng, hỗ trợ, tái định cư; hỗ trợ xây dựng công trình tạm để tùng địa phương thực hiện theo quy định của pháp luật về đầu tư công.
Thẩm quyền, trình tự phê duyệt dự án PPP
Nghị định 243/2025/NĐ-CP quy định việc phê duyệt dự án PPP thuộc thẩm quyền của người đứng đầu cơ quan có thẩm quyền gồm:
- Bộ trưởng, người đứng đầu cơ quan trung ương, cơ quan khác, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt dự án PPP theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 21 của Luật PPP;
- Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị quy định tại khoản 2 Điều 6 của Nghị định 243/2025/NĐ-CP được phê duyệt dự án do cơ quan, tổ chức, đơn vị mình làm cơ quan có thẩm quyền.
Trình tự phê duyệt dự án PPP được thực hiện như sau:
a- Đơn vị chuẩn bị dự án PPP lập báo cáo nghiên cứu khả thi, báo cáo kinh tế - kỹ thuật đầu tư xây dựng làm cơ sở trình người đứng đầu cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định;
b- Đơn vị thẩm định dự án tổ chức thẩm định báo cáo nghiên cứu khả thi, gửi đơn vị chuẩn bị dự án PPP;
c- Đơn vị chuẩn bị dự án PPP hoàn chỉnh hồ sơ trình người đứng đầu cơ quan có thẩm quyền;
d- Người đứng đầu cơ quan có thẩm quyền phê duyệt dự án.
Quy định trên có hiệu lực từ ngày 11/9/2025.
Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Hòa Bình vừa ký Quyết định số 2016/QĐ-TTg ngày 12/9/2025 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Trung tâm Xúc tiến Đầu tư, Thương mại và Du lịch tỉnh Điện Biên.
Quyết định nêu rõ: Thành lập Trung tâm Xúc tiến Đầu tư, Thương mại và Du lịch tỉnh Điện Biên trên cơ sở tổ chức lại Trung tâm Xúc tiến đầu tư trực thuộc Sở Tài chính, Trung tâm Xúc tiến thương mại trực thuộc Sở Công Thương và Trung tâm Thông tin xúc tiến du lịch trực thuộc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Điện Biên.
Trung tâm Xúc tiến Đầu tư, Thương mại và Du lịch tỉnh Điện Biên (sau đây gọi tắt là Trung tâm) là đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Điện Biên, thực hiện chức năng xúc tiến đầu tư, thương mại, du lịch trên địa bàn tỉnh theo quy định của pháp luật.
Trung tâm có tư cách pháp nhân, có con dấu, trụ sở làm việc, được mở tài khoản tại Kho bạc nhà nước và ngân hàng để hoạt động theo quy định của pháp luật.
Ủy ban nhân dân tỉnh Điện Biên quy định nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Trung tâm; chỉ đạo việc tổ chức thực hiện điều chuyển tài sản, tài chính và viên chức, người lao động từ Trung tâm Xúc tiến đầu tư trực thuộc Sở Tài chính, Trung tâm Xúc tiến thương mại trực thuộc Sở Công Thương và Trung tâm Thông tin xúc tiến du lịch trực thuộc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Điện Biên về Trung tâm theo quy định của pháp luật.
Ủy ban nhân dân tỉnh Điện Biên chỉ đạo Trung tâm xây dựng lộ trình thực hiện tự chủ tài chính theo quy định của pháp luật.
Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký ban hành (12/9/2025).
Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Thành Long ký Quyết định số 125/QĐ-BCĐRSTCTHXLVMHTPL ban hành Kế hoạch chỉ đạo thực hiện kết luận của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về hoàn thiện thể chế, pháp luật tại Phiên họp chuyên đề của Ban Chỉ đạo để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc do quy định pháp luật.
Kế hoạch yêu cầu các Bộ, ngành, cơ quan liên quan triển khai các nội dung theo tiến độ cụ thể như sau:
Bộ, cơ quan ngang Bộ đã phối hợp với các thành viên Ban Chỉ đạo, Nhóm giúp việc, cơ quan của Quốc hội và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan, chỉ đạo hoàn thiện kết quả rà soát, bảo đảm xác định chính xác nội dung 834 các khó khăn, vướng mắc và 21 nội dung kiến nghị, phản ánh không thống nhất ý kiến giữa Bộ Tư pháp với các Bộ, ngành liên quan, để có phương án xử lý đối với từng vướng mắc cụ thể. Đồng thời, trả lời, công khai ý kiến chính thức của Bộ, ngành về các nội dung kiến nghị, phản ánh mà các Bộ, cơ quan nhất trí là không phải khó khăn, vướng mắc do quy định pháp luật để các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân có kiến nghị được biết. Các nội dung này đã hoàn thành trong tháng 8/2025.
Trước 15/9, bổ sung các Luật vào Chương trình lập pháp năm 2025 của Quốc hội
Bộ, cơ quan ngang Bộ phối hợp với các cơ quan của Quốc hội, Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ, các thành viên Ban Chỉ đạo, Nhóm giúp việc và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan, tham mưu, bổ sung các Luật vào Chương trình lập pháp năm 2025 của Quốc hội, thông qua tại Kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XV để giải quyết ngay những vấn đề vướng mắc liên quan đến Luật. Hoàn thành trước ngày 15/9/2025.
Các Bộ, cơ quan ngang Bộ thường xuyên chú trọng nâng cao hiệu quả công tác hướng dẫn áp dụng pháp luật và tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật để người dân, doanh nghiệp, chính quyền địa phương hiểu, áp dụng thống nhất quy định pháp luật.
Ngoài ra, Bộ, cơ quan ngang Bộ phối hợp với các thành viên Ban Chỉ đạo, Nhóm giúp việc và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan, tiếp tục rà soát, đề xuất giải pháp tháo gỡ, không bỏ sót những khó khăn, vướng mắc do quy định pháp luật thuộc phạm vi ngành, lĩnh vực phụ trách, lưu ý phải bám sát thực tiễn, tập trung giải quyết những vấn đề đang cản trở phát triển; bảo đảm mục tiêu "trong năm 2025 cơ bản hoàn thành việc tháo gỡ các "điểm nghẽn" do quy định pháp luật".
Xử lý dứt điểm đối với các khó khăn, vướng mắc do quy định pháp luật thuộc thẩm quyền
Các Bộ, cơ quan ngang bộ chủ động xử lý dứt điểm đối với các khó khăn, vướng mắc do quy định pháp luật thuộc thẩm quyền xử lý của các Bộ, ngành mình. Đối với các khó khăn, vướng mắc do quy định pháp luật thuộc thẩm quyền xử lý của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, cơ quan chủ động, phối hợp với các cơ quan có liên quan báo cáo, đề xuất cơ quan, người có thẩm quyền xử lý dứt điểm.
Cơ quan thường trực Ban Chỉ đạo (Bộ Tư pháp) theo dõi, đôn đốc, điều phối chung việc thực hiện các nhiệm vụ nêu tại Kế hoạch này. Đồng thời, phối hợp với các thành viên Ban Chỉ đạo, Nhóm giúp việc, Bộ, cơ quan ngang Bộ và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan xây dựng Báo cáo tổng hợp tình hình, kết quả thực hiện các nhiệm vụ được nêu tại Kế hoạch này, hoàn thành trong tháng 9/2025.
Các thành viên Ban Chỉ đạo, thành viên Nhóm giúp việc, các Bộ, cơ quan ngang Bộ căn cứ nội dung Kế hoạch này, Quy chế tổ chức và hoạt động của Ban Chỉ đạo, phân công và chỉ đạo trực tiếp của Trưởng Ban Chỉ đạo tổ chức thực hiện, bảo đảm đúng tiến độ, chất lượng, hiệu quả nhiệm vụ được giao; kịp thời trao đổi, phối hợp với Bộ Tư pháp - Cơ quan thường trực Ban Chỉ đạo để xử lý những khó khăn, vướng mắc hoặc báo cáo Trưởng Ban Chỉ đạo xem xét, xử lý.
Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký ban hành (08/9/2025).
Phó Thủ tướng Hồ Đức Phớc đã ký các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm 4 Ủy viên Hội đồng quản trị Ngân hàng Chính sách xã hội.
Cụ thể, ngày 11/9/2025, lần lượt tại các Quyết định số: 2003/QĐ-TTg, 2005/QĐ-TTg, 2006/QĐ-TTg, Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm đồng chí Nguyễn Mạnh Khương, Thứ trưởng Bộ Nội vụ; đồng chí Võ Văn Hưng, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường; đồng chí Nguyễn Đức Chi, Thứ trưởng Bộ Tài chính kiêm giữ chức Ủy viên Hội đồng quản trị Ngân hàng Chính sách xã hội.
Đồng thời, tại Quyết định số 2007/QĐ-TTg ngày 11/9/2025, Thủ tướng Chính phủ cũng bổ nhiệm đồng chí Nguyễn Tường Lâm, Bí thư Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh kiêm giữ chức Ủy viên Hội đồng quản trị Ngân hàng Chính sách xã hội, thay đồng chí Ngô Văn Cương đã được phân công công tác khác.
Thời hạn bổ nhiệm là 5 năm./.