Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
Tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh than và cung cấp than cho sản xuất điện trong tình hình mới
Phó Thủ tướng Bùi Thanh Sơn vừa ký Chỉ thị số 30/CT-TTg ngày 6/10/2025 của Thủ tướng Chính phủ về việc tiếp tục tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh than và cung cấp than cho sản xuất điện trong tình hình mới.
Chỉ thị nêu: Với tinh thần nghiêm túc và quyết liệt trong triển khai các nhiệm vụ được Chính phủ giao, cùng với việc thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 29/CT-TTg ngày 02 tháng 12 năm 2019 của Thủ tướng Chính phủ về việc tiếp tục tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh than và cung cấp than cho sản xuất điện trong thời gian qua, hoạt động sản xuất, kinh doanh than tại các địa phương trên cả nước đã được kiểm soát, cơ bản tuân thủ quy định của pháp luật; an ninh trật tự, tài nguyên ranh giới mỏ cơ bản được đảm bảo; có chuyển biến tích cực trong công tác bảo vệ khoáng sản than và bảo vệ môi trường; hoạt động vận chuyển, kinh doanh, tiêu thụ than bất hợp pháp đã được kiểm soát, hạn chế, góp phần tạo điều kiện để ngành Than ổn định sản xuất kinh doanh và đóng góp đáng kể cho ngân sách nhà nước; việc cung cấp than cho sản xuất điện được thực hiện đồng bộ, hiệu quả và đã góp phần tích cực trong việc bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Thời gian tới, các điều kiện và yêu cầu phát triển kinh tế xã hội trong tình hình mới đặt ra mục tiêu cao hơn rất nhiều so với thời gian qua, như: mục tiêu tăng trưởng kinh tế cả nước năm 2025 phấn đấu đạt trên mức 8% và giai đoạn 2026 - 2030 ở mức 2 con số (tương ứng tốc độ tăng trưởng điện năng gấp khoảng 1,2 - 1,5 lần tốc độ tăng trưởng kinh tế); việc thực hiện cam kết của Việt Nam phát thải ròng bằng "0" vào năm 2050; việc chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất kinh doanh; việc bảo đảm an ninh cho các mỏ than (nhất là các mỏ than nội địa). Đây là những thách thức rất lớn đối với công tác quản lý, tổ chức thực hiện hoạt động sản xuất, kinh doanh than và cung cấp than cho điện.
Xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân có hành vi tiếp tay, bao che cho hoạt động sản xuất, kinh doanh than trái phép
Để nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh than và cung cấp than cho sản xuất điện phù hợp với các điều kiện, yêu cầu phát triển kinh tế xã hội trong tình hình mới; thực hiện các Nghị quyết của Bộ Chính trị, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ thị các bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp liên quan theo thẩm quyền và chức năng, nhiệm vụ được giao tổ chức thực hiện thống nhất, đồng bộ, hiệu quả các nội dung, nhiệm vụ, giải pháp được Chính phủ giao tại Nghị quyết số 03/NQ-CP ngày 09 tháng 01 năm 2025 ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22 tháng 12 năm 2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong doanh nghiệp, trong đó có các doanh nghiệp tham gia hoạt động sản xuất, kinh doanh than và cung cấp, sử dụng than cho sản xuất điện.
Các bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp liên quan tăng cường phối hợp, chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương, doanh nghiệp liên quan thực hiện đúng các quy định của pháp luật trong hoạt động sản xuất, kinh doanh than và cung cấp than cho sản xuất điện; chủ động nghiên cứu, đề xuất cơ chế, chính sách, giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để thực hiện hiệu quả các dự án của ngành Than và thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh than đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội trong tình hình mới.
Đồng thời, tiếp tục tăng cường công tác kiểm tra, xử lý nghiêm các hành vi thăm dò, khai thác, vận chuyển, chế biến, kinh doanh than trái phép; kiên quyết xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân có hành vi tiếp tay, bao che cho hoạt động sản xuất, kinh doanh than trái phép.
Kiểm tra hoạt động chế biến và cung cấp than cho sản xuất điện
Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ trưởng Bộ Công Thương phải thường xuyên theo dõi tình hình cung cấp than cho sản xuất điện; chủ động dự báo nhu cầu sử dụng than và khả năng cung ứng than cho sản xuất điện đáp ứng mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2025 và giai đoạn 2026 - 2030; tăng cường đôn đốc, kiểm tra, giám sát và kịp thời lãnh đạo, chỉ đạo các đơn vị liên quan thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp phù hợp để đảm bảo cung ứng đủ than cho sản xuất điện.
Cùng với đó là đôn đốc, chỉ đạo, hướng dẫn các doanh nghiệp ngành Than, chủ đầu tư nhà máy điện than áp dụng các chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư cho hoạt động chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, nghiên cứu, ứng dụng khoa học, đổi mới công nghệ,... để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, quản trị doanh nghiệp; sử dụng hiệu quả tài nguyên than; giảm giá thành sản xuất; tăng cường khả năng giám sát, dự báo, quản lý chuỗi cung ứng than và góp phần thực hiện cam kết của Việt Nam trong chuyển đổi năng lượng bền vững, công bằng.
Tiếp tục rà soát, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật, quy định liên quan để ban hành ngay theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành trước 31 tháng 12 năm 2025 (nếu có), trường hợp có văn bản cần sửa đổi thuộc thẩm quyền của Quốc hội cần khẩn trương xây dựng, trình Quốc hội ngay trong kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XV; tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật trong quá trình thực hiện các Chiến lược, Quy hoạch, Kế hoạch liên quan.
Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương liên quan tổ chức kiểm tra hoạt động chế biến và cung cấp than cho sản xuất điện, công tác bảo đảm an toàn lao động trong sản xuất than của các địa phương, tổ chức, cá nhân liên quan theo thẩm quyền.
Rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục hành chính trong điều chỉnh, bổ sung nội dung Giấy phép hoạt động khoáng sản
Thủ tướng Chính phủ cũng yêu cầu Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường chỉ đạo, hướng dẫn các cơ quan, địa phương, tổ chức, cá nhân liên quan thực hiện nhanh, rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục hành chính trong việc điều chỉnh, bổ sung nội dung Giấy phép hoạt động khoáng sản để gia tăng tối đa sản lượng than khai thác trong nước đảm bảo an toàn, bảo vệ môi trường, đáp ứng mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2025 và giai đoạn 2026 - 2030, phù hợp với các điều kiện và yêu cầu phát triển kinh tế xã hội trong tình hình mới, tuân thủ pháp luật, báo cáo Thủ tướng Chính phủ kết quả thực hiện trong tháng 10 năm 2025.
Tiếp tục rà soát thủ tục, quy trình, quy định và đẩy mạnh ứng dụng chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, khoa học, đổi mới công nghệ trong việc cấp phép hoạt động khoáng sản than, thẩm định, đánh giá, công nhận kết quả thăm dò, xác định trữ lượng khoáng sản than, quản lý, kiểm soát số lượng khoáng sản khai thác thực tế để tăng cường phân cấp, phân quyền, cắt giảm tối đa thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp sản xuất kinh doanh than; trên cơ sở kết quả rà soát, sửa đổi theo thẩm quyền hoặc đề xuất cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện đáp ứng yêu cầu công tác quản lý trong tình hình mới, hoàn thành trong tháng 10 năm 2025...
Không để xảy ra tình trạng cấp phép thấp hơn trữ lượng thực tế
Bộ Nông nghiệp và Môi trường chủ trì làm việc với các địa phương và doanh nghiệp có hoạt động khoáng sản than khẩn trương rà soát, xử lý theo thẩm quyền các vấn đề vướng mắc liên quan đến chồng lấn quy hoạch, phương án sử dụng rừng, chuyển đổi mục đích sử dụng rừng hoàn thành trong tháng 10 năm 2025 và khẩn trương xây dựng, ban hành theo thẩm quyền văn bản hướng dẫn công tác quản lý và bảo vệ khoáng sản than chưa khai thác, khoáng sản đi kèm trong quá trình khai thác, khoáng sản thuộc khu vực dự trữ quốc gia theo quy định; khai thác, sử dụng đất, đá thải mỏ để phục vụ cho mục đích cải tạo, phục hồi môi trường, các công trình phục vụ dự án và các mục đích khác hoàn thành trong tháng 10 năm 2025.
Đồng thời, thực hiện kiểm tra, hậu kiểm hoạt động thăm dò, đánh giá trữ lượng và tài nguyên than, cấp phép khai thác than tại các mỏ trên toàn quốc, không để xảy ra tình trạng cấp phép thấp hơn trữ lượng thực tế; rà soát các Giấy phép hoạt động khoáng sản còn hiệu lực, đánh giá tình hình hoạt động, việc chấp hành các nghĩa vụ trong hoạt động khoáng sản,...; kiên quyết thu hồi, chấm dứt hiệu lực theo đúng quy trình, quy định của pháp luật các Giấy phép hoạt động khoáng sản đã cấp đối với các tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật về khoáng sản và pháp luật khác liên quan có hệ thống, chây ì, không khắc phục đầy đủ hậu quả theo các quyết định xử phạt của cơ quan chức năng; tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, chấn chỉnh, xử lý vi phạm pháp luật các tổ chức, cá nhân liên quan đến hoạt động khoáng sản than (đặc biệt là các mỏ than nội địa, địa phương).
Ngăn chặn gian lận thương mại trong hoạt động kinh doanh than
Bộ trưởng Bộ Tài chính chỉ đạo, giám sát, đôn đốc Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam đẩy mạnh khai thác than trong nước tối đa nhằm đáp ứng đủ nhiên liệu than và có dự phòng cho sản xuất điện, đáp ứng mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2025 và giai đoạn 2026 - 2030, phù hợp với các điều kiện và yêu cầu phát triển kinh tế xã hội trong tình hình mới, trong đó khai thác than tăng từ 20% - 25% so với năm 2024; đẩy mạnh việc nghiên cứu, áp dụng các biện pháp quản lý hiệu quả về tài chính (hóa đơn, thuế, phí, lệ phí,...), thủ tục hải quan,... theo hướng ứng dụng chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, khoa học và đổi mới công nghệ để giảm thủ tục hành chính và ngăn chặn hiệu quả việc gian lận thương mại trong hoạt động kinh doanh than.
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng chỉ đạo các lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam, Bộ đội Biên phòng tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các lực lượng chức năng liên quan tăng cường kiểm tra, kiểm soát các tuyến biên giới, vùng biển và hải đảo để kịp thời phát hiện và ngăn chặn hoạt động buôn lậu, kinh doanh than trái phép, đặc biệt là đối với đường biển.
Bộ trưởng Bộ Công an chỉ đạo lực lượng Công an các đơn vị, địa phương tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các lực lượng chức năng liên quan tăng cường các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm trong hoạt động sản xuất, kinh doanh than và cung cấp than cho sản xuất điện theo quy định của pháp luật.
Hỗ trợ các đơn vị sản xuất, sử dụng than đẩy mạnh chuyển đổi số, chuyển đổi xanh
Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có hoạt động sản xuất, kinh doanh than và cung cấp than cho sản xuất điện khẩn trương hoàn thành việc sắp xếp các vị trí bến cảng, kho bãi kinh doanh than trên địa bàn quản lý theo thẩm quyền và quy định của pháp luật liên quan hoàn thành trong tháng 12 năm 2025. Tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc (trong việc sử dụng đất, đền bù giải phóng mặt bằng, tái định cư,...) của các doanh nghiệp ngành Than.
Thường xuyên kiểm tra các điểm khai thác, tuyến đường vận chuyển, vị trí tập kết, chế biến, lưu trữ, kinh doanh than, cung cấp than cho sản xuất điện trên địa bàn quản lý; kiên quyết xử lý theo thẩm quyền/đề xuất cơ quan có thẩm quyền xử lý nghiêm theo pháp luật đối với các tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật trong quá trình thực hiện nhằm phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật và các vấn đề phức tạp về an ninh trật tự (đặc biệt là đối với các mỏ than nội địa, địa phương); tổ chức và chỉ đạo thực hiện các biện pháp bảo vệ tài nguyên địa chất chưa khai thác, sử dụng, bảo vệ khoáng sản chưa khai thác.
Đồng thời, hỗ trợ các đơn vị sản xuất, sử dụng than tại địa phương đẩy mạnh việc chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ để kiểm soát hiệu quả chất lượng và định mức tiêu hao than, giảm các khâu trung gian, tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, quản trị doanh nghiệp và phù hợp lộ trình cam kết của Việt Nam phát thải ròng bằng "0" vào năm 2050.
Giám sát chặt chẽ từ nơi khai thác, trên đường vận chuyển đến các kho bãi
Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam, Binh đoàn 19 (Tổng công ty Đông Bắc) và các đơn vị được phép khai thác, kinh doanh than đẩy mạnh khai thác than trong nước tối đa nhằm đáp ứng đủ nhiên liệu than và có dự phòng cho sản xuất điện, đáp ứng mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2025 và giai đoạn 2026 - 2030, phù hợp với các điều kiện và yêu cầu phát triển kinh tế xã hội trong tình hình mới; chuẩn bị sẵn sàng giải pháp, kịch bản ứng phó, kiểm soát các tình huống thời tiết cực đoan có thể xảy ra để bảo đảm cung ứng đủ, ổn định, liên tục than cho sản xuất điện.
Thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong doanh nghiệp. Tăng cường đầu tư, hoàn thiện hạ tầng, phát triển nhân lực chất lượng cao, hợp tác quốc tế,... đáp ứng yêu cầu phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh trong tất cả các khâu của hoạt động sản xuất kinh doanh than và cung cấp than cho các hộ tiêu thụ (đặc biệt là các khâu thăm dò, đào lò, khai thác, chế biến và pha trộn than,...) để nâng cao năng lực, tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, quản trị doanh nghiệp và đảm bảo an toàn lao động, cải thiện môi trường và điều kiện làm việc cho người lao động, bảo vệ môi trường và phù hợp cam kết của Việt Nam phát thải ròng bằng "0" vào năm 2050.
Thường xuyên kiểm tra, quản lý chặt chẽ ranh giới mỏ/dự án được giao để kịp thời phát hiện, ngăn chặn và xử lý theo quy định các hoạt động khai thác, kinh doanh than trái phép; tăng cường quản lý, giám sát chặt chẽ than từ nơi khai thác, chế biến, trên đường vận chuyển đến các kho bãi, cảng/vị trí giao nhận than; quản lý chặt chẽ đất đá thải mỏ, đất đá sau sàng tuyển than...
Tuyệt đối không để xảy ra tình trạng thiếu than cho sản xuất điện
Chủ đầu tư nhà máy nhiệt điện than chịu trách nhiệm thu xếp nguồn than hợp pháp để vận hành nhà máy an toàn, ổn định, tin cậy, đảm bảo hiệu quả kinh tế và môi trường trong suốt thời gian tồn tại. Tuyệt đối không để xảy ra tình trạng thiếu than cho sản xuất điện; chịu trách nhiệm toàn diện nếu để xảy ra thiếu than cho sản xuất điện của nhà máy theo kế hoạch huy động của hệ thống điện quốc gia; luôn duy trì sẵn sàng lượng than dự trữ trong kho phù hợp với định mức (nếu có), nhu cầu tiếp nhận, sử dụng than và có tính đến dự phòng đảm bảo ứng phó với các tình huống cực đoan.
Thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong doanh nghiệp. Tăng cường đầu tư, hoàn thiện hạ tầng, phát triển nhân lực chất lượng cao, hợp tác quốc tế,... đáp ứng yêu cầu phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh trong vận chuyển, pha trộn, lưu trữ và sử dụng than; đảm bảo quản lý, kiểm soát chặt chẽ và hiệu quả khối lượng, chất lượng than giao nhận, sử dụng tuân thủ quy định liên quan. Chịu trách nhiệm hoàn toàn trước pháp luật nếu để xảy ra tiêu cực, lãng phí, vi phạm trong giao nhận, sử dụng than và thực hiện nghiêm lộ trình chuyển đổi nhiên liệu than theo Kế hoạch được cấp thẩm quyền phê duyệt...
Điều chỉnh Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050
Chính phủ ban hành Nghị quyết số 306/NQ-CP về điều chỉnh Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Xác lập mô hình tăng trưởng mới, lấy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số làm động lực chính
Mục tiêu tổng quát là phấn đấu đến năm 2030 Việt Nam là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; xác lập mô hình tăng trưởng mới, lấy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số làm động lực chính; mô hình tổ chức không gian phát triển quốc gia hiệu quả, thống nhất, bền vững, các vùng động lực, hành lang kinh tế, cực tăng trưởng phát huy vai trò đi đầu, dẫn dắt trong phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia; có mạng lưới kết cấu hạ tầng cơ bản đồng bộ, hiện đại; bảo đảm các cân đối lớn, nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế; bảo đảm an ninh năng lượng, an ninh lương thực và an ninh nguồn nước; môi trường sinh thái được bảo vệ, thích ứng với biến đổi khí hậu; phát triển toàn diện nguồn nhân lực, đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân được nâng cao; quốc phòng, an ninh được bảo đảm; vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên. Cụ thể:
Phấn đấu GDP bình quân đạt trên 8,0%/năm thời kỳ 2021 - 2030
Về kinh tế, phấn đấu tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân đạt trên 8,0%/năm thời kỳ 2021 - 2030. Đến năm 2030, GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đạt khoảng 8.500 USD. Tỷ trọng trong GDP của khu vực dịch vụ đạt trên 50%, khu vực công nghiệp - xây dựng trên 40%, khu vực nông, lâm, thủy sản dưới 10%. Tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân đạt khoảng 7%/năm thời kỳ 2021 - 2030; trong đó giai đoạn 2026 - 2030 đạt trên 8,5%/năm. Đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng đạt trên 55%.
Phát huy lợi thế của từng vùng kinh tế - xã hội; tập trung phát triển 2 vùng động lực phía Bắc và phía Nam gắn với 2 cực tăng trưởng là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, hành lang kinh tế Bắc - Nam, hành lang kinh tế Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, hành lang kinh tế Mộc Bài - Thành phố Hồ Chí Minh - Biên Hòa - Vũng Tàu với kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, có tốc độ tăng trưởng cao, đóng góp lớn vào phát triển chung của đất nước.
Phát triển mạnh hạ tầng số, hạ tầng dữ liệu tạo nền tảng chuyển đổi số quốc gia, phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số; tỷ trọng kinh tế số đạt khoảng 30% GDP...
Phát triển nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực
Về xã hội, duy trì vững chắc mức sinh thay thế (bình quân mỗi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có 2,1 con); quy mô dân số đạt khoảng 105 triệu người. Chỉ số phát triển con người (HDI) đạt khoảng 0,78. Tuổi thọ bình quân đạt khoảng 75,5 tuổi. Tỷ lệ lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội giảm xuống dưới 20%. Nâng cao chất lượng việc làm, giữ tỷ lệ thất nghiệp ở mức hợp lý.
Phát triển nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực; thuộc nhóm 10 quốc gia có hệ thống giáo dục đại học tốt nhất châu Á. Phấn đấu ít nhất 8 cơ sở giáo dục đại học thuộc nhóm 200 đại học hàng đầu châu Á, ít nhất 1 cơ sở giáo dục đại học thuộc nhóm 100 đại học hàng đầu thế giới trong một số lĩnh vực theo các bảng xếp hạng quốc tế uy tín.
Nâng cao chất lượng dịch vụ y tế ngang tầm các nước tiên tiến trong khu vực. Phát triển mạng lưới cơ sở y tế quốc gia đáp ứng yêu cầu chăm sóc, bảo vệ, nâng cao sức khỏe toàn dân, hướng tới mục tiêu công bằng, chất lượng, hiệu quả và hội nhập quốc tế.
Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh trong các lĩnh vực đời sống xã hội. Phát triển mạng lưới cơ sở văn hóa quốc gia bảo đảm thực hiện tốt nhiệm vụ bảo tồn và phát huy giá trị bản sắc văn hóa dân tộc, thúc đẩy phát triển công nghiệp văn hóa. Phấn đấu 100% đơn vị hành chính cấp tỉnh có đủ 3 loại hình thiết chế văn hoá, gồm: trung tâm văn hoá hoặc trung tâm văn hoá - nghệ thuật, bảo tàng và thư viện.
Nhiệm vụ trọng tâm trong thời kỳ quy hoạch
Một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong thời kỳ quy hoạch là hình thành cơ bản bộ khung kết cấu hạ tầng quốc gia, tập trung vào hạ tầng giao thông, hạ tầng đô thị, hạ tầng nông thôn, hạ tầng năng lượng, hạ tầng số, hạ tầng văn hóa, xã hội, hạ tầng thủy lợi, bảo vệ môi trường, phòng, chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu
Xác lập mô hình tăng trưởng mới, lấy khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là động lực chính. Ưu tiên phát triển một số ngành, lĩnh vực có tiềm năng, lợi thế và còn dư địa lớn, phù hợp với xu thế chung của thế giới và gắn với không gian phát triển mới
Đồng thời, phát triển các vùng động lực, cực tăng trưởng quốc gia quan trọng để hình thành các đầu tàu dẫn dắt sự phát triển của quốc gia. Lựa chọn một số địa bàn, đô thị, vùng có lợi thế đặc biệt để xây dựng trung tâm kinh tế, tài chính, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt với thể chế, cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội có tính đột phá, có khả năng cạnh tranh quốc tế cao. Đồng thời có cơ chế, chính sách, nguồn lực phù hợp để bảo đảm an sinh xã hội và từng bước phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, khu vực biên giới, hải đảo, góp phần ổn định chính trị, giữ vững quốc phòng, an ninh;
Hình thành và phát triển các hành lang kinh tế theo trục Bắc - Nam, các hành lang kinh tế Đông - Tây, các vành đai kinh tế ven biển; kết nối hiệu quả các cảng biển, cảng hàng không, cửa khẩu quốc tế, đầu mối giao thương lớn, các đô thị, trung tâm kinh tế, cực tăng trưởng; kết nối hiệu quả với các hành lang kinh tế của khu vực và thế giới. Phát triển các vành đai công nghiệp - đô thị - dịch vụ tại các vùng động lực, vùng đô thị lớn; đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả liên kết vùng, khai thác hiệu quả không gian phát triển mới sau sáp nhập, sắp xếp đơn vị hành chính các cấp.
Phát triển các vùng động lực, cực tăng trưởng quốc gia
Nghị quyết nêu rõ định hướng phát triển không gian kinh tế xã hội gồm: Phân vùng kinh tế - xã hội, định hướng phát triển và liên kết vùng; phát triển các vùng động lực, cực tăng trưởng quốc gia; phát triển các hành lang kinh tế.
Trong đó, về phát triển các vùng động lực, Nghị quyết nêu rõ lựa chọn một số địa bàn có điều kiện thuận lợi nhất trên các vùng để hình thành các vùng động lực quốc gia.
Cụ thể, phát triển vùng động lực phía Bắc bao gồm Thành phố Hà Nội và các địa bàn gắn với các tuyến đường Vành đai 4, Vành đai 5, các trục quốc lộ 5, quốc lộ 18, các cao tốc CT01, СТ04, СТ05, СT07, CT09 qua thành phố Hải Phòng và các tỉnh Bắc Ninh, Thái Nguyên, Phú Thọ, Ninh Bình, Hưng Yên, Quảng Ninh; trong đó, Thành phố Hà Nội là cực tăng trưởng.
Xây dựng vùng động lực phía Bắc đi đầu trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, kinh tế số, xã hội số; phát huy vai trò trung tâm kinh tế, văn hoá, giáo dục, đào tạo, y tế, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo của quốc gia...
Phát triển vùng động lực phía Nam bao gồm các địa bàn dọc theo trục quốc lộ 22, quốc lộ 13, quốc lộ 1, quốc lộ 51, cao tốc Bắc - Nam phía Tây và đường Vành đai 4 qua Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Đồng Nai, Tây Ninh; trong đó Thành phố Hồ Chí Minh là cực tăng trưởng. Trong giai đoạn sau năm 2030, nghiên cứu mở rộng phạm vi của vùng động lực.
Xây dựng vùng động lực phía Nam dẫn đầu cả nước và hàng đầu khu vực Đông Nam Á về kinh tế, tài chính, thương mại, dịch vụ, y tế, giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số. Tập trung phát triển mạnh hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, đi đầu trong chuyển đổi mô hình tăng trưởng, xây dựng kinh tế số, xã hội số. Phát triển mạnh các dịch vụ tài chính, ngân hàng, khoa học, công nghệ, logistics. Phát triển trung tâm tài chính quốc tế tại Thành phố Hồ Chí Minh hướng tới mục tiêu trở thành trung tâm tài chính quốc tế hàng đầu, nâng tầm vị thế của Việt Nam trong mạng lưới tài chính toàn cầu gắn với động lực tăng trưởng kinh tế...
Hình thành, phát triển vùng động lực miền Trung bao gồm khu vực ven biển thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương: Huế, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Gia Lai; trong đó thành phố Đà Nẵng là cực tăng trưởng.
Tiếp tục hình thành, phát triển hệ thống đô thị ven biển, các trung tâm du lịch biển; trung tâm công nghiệp lọc hóa dầu và năng lượng quốc gia, công nghiệp ô tô, phụ trợ ngành cơ khí; phát triển cảng biển và dịch vụ cảng biển, cảng hàng không và công nghiệp hàng không; dịch vụ logistics gắn với cảng biển, cảng hàng không...
Hình thành, phát triển vùng động lực đồng bằng sông Cửu Long bao gồm các địa bàn thuộc thành phố Cần Thơ và các tỉnh An Giang, Vĩnh Long, Đồng Tháp gắn với khu vực kết nối các tuyến đường cao tốc (cao tốc Bắc - Nam phía Đông đoạn Cần Thơ - Vĩnh Long, cao tốc An Hữu - Cao Lãnh, cao tốc Bắc Nam phía Tây từ Cao Lãnh đến Rạch Sỏi, cao tốc Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng, Hà Tiên - Rạch Giá - Bạc Liêu) và đặc khu Phú Quốc; trong đó thành phố Cần Thơ là cực tăng trưởng. Trong giai đoạn sau năm 2030, nghiên cứu mở rộng phạm vi của vùng động lực gắn với cảng biển Trần Đề.
Xây dựng vùng động lực đồng bằng sông Cửu Long trở thành trung tâm dịch vụ, du lịch, logistics, công nghiệp phục vụ nông nghiệp. Hình thành các trung tâm đầu mối về nông nghiệp gắn với các vùng chuyên canh; xây dựng vùng trở thành trung tâm quốc gia về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo trong nông nghiệp và các dịch vụ phục vụ nông nghiệp. Phát triển kinh tế biển, tập trung xây dựng đặc khu Phú Quốc (tỉnh An Giang) thành trung tâm dịch vụ, du lịch sinh thái biển mang tầm quốc tế, kết nối với các trung tâm kinh tế lớn trong khu vực và thế giới.
Hình thành vùng động lực Bắc Trung Bộ bao gồm các địa bàn dọc theo đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông, Quốc lộ 1 và đường ven biển, gắn với các đô thị trung tâm tỉnh, đô thị du lịch ven biển và các khu kinh tế ven biển của ba tỉnh Thanh Hóa - Nghệ An - Hà Tĩnh.
Xây dựng vùng động lực Bắc Trung Bộ trở thành một trung tâm về công nghiệp lọc hóa dầu, luyện kim, cơ khí chế tạo, công nghiệp ô tô và phụ trợ của cả nước; đồng thời phát triển nhanh các ngành công nghiệp mới như điện tử, bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, công nghiệp công nghệ số, các ngành công nghệ cao..., tạo động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội toàn vùng...
Ngoài ra, từng bước xây dựng, hình thành vùng động lực tại vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên (khu vực Khánh Hòa, Lâm Đồng và vùng phụ cận).
Nghị quyết cũng nêu rõ định hướng phát triển hệ thống đô thị và nông thôn quốc gia; định hướng khai thác và sử dụng vùng trời; định hướng phát triển và phân bố không gian các ngành quan trọng (công nghiệp; dịch vụ; nông, lâm nghiệp và thủy sản); định hướng phát triển hạ tầng xã hội cấp quốc gia; định hướng phát triển hạ tầng kỹ thuật cấp quốc gia; định hướng sử dụng đất quốc gia./.