Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ

Nhà giáo Trần Thị Hợp Phố
Cuộc chiến với số phận và người thầy đầu tiên
Hợp Phố sinh năm Tân Dậu (1921) tại Quảng Nam - Đà Nẵng. Bà là con gái của một vị Giám đốc nhà lao Đà Nẵng (Chef du Prison Central de Tourane) nhưng hai anh em và chị gái bà lại sớm giác ngộ cách mạng và trở thành Đảng viên cộng sản đầu tiên của tỉnh Quảng Nam. Khi bà lên chín tuổi, người anh bị bắt và đày đi Lao Bảo, buộc gia đình phải rời quê hương vào sinh sống tại Sài Gòn, bắt đầu chuỗi ngày tha hương cầu thực khắp nơi: Cần Thơ, Bắc Ninh, Hà Nội, Quảng Ngãi, Huế… Điều nghiệt ngã hơn cả là việc bà bị tàn tật bẩm sinh. Vóc người nhỏ thó, lại mang nguyên cục gù trên lưng, lục phủ ngũ tạng dồn lại thành một khối khiến việc khám chữa bệnh vô cùng khó khăn. Cột sống yếu ớt, đến một tuổi vẫn chưa biết đi, phải dùng tay giữ đầu. Bảy tuổi, bà chỉ đi lom khom, phải dùng tay chống gối. Thế nhưng, chính trong hình hài nhỏ bé và yếu ớt ấy, một trí tuệ sắc sảo đã sớm bừng nở. Hợp Phố sáng dạ, nói và hiểu được tất cả. Nhờ sự dạy dỗ của người anh trai Thiên Giang-Trần Kim Bảng, chỉ trong vòng một tháng, bà đã ráp xong vần quốc ngữ và đến tháng thứ ba đã đọc được vần Tây. Tiếng đồn về cô bé tật nguyền thông minh lan xa: "Con 'gù' mới biết bò đã biết đọc".
Bước ngoặt lớn nhất trong đời bà là khi gia đình kết sui gia với gia đình họ Đào Duy. Ông Đào Duy Anh, nhà tự điển học, nhà sử học lỗi lạc, nhận thấy Hợp Phố thông minh và hiếu học, đã nhận bà về Huế nuôi ăn học tại trường Nữ học Huế. Ông trở thành người thầy đầu đời của cô gái tật nguyền.
Cuộc đời chưa bao giờ hết thử thách bà. Bị tật nguyền, hạnh phúc dở dang, một mình nuôi dạy ba người con nên người, Hợp Phố đã kiên cường vượt lên số phận bằng ý chí, nghị lực, tinh thần đấu tranh không mệt mỏi.
Trước khi trở thành nhà văn, nhà báo, Hợp Phố là một cô giáo trường tư ở Cần Thơ. Sau khi lấy chồng và sinh con, bà trở về Sài Gòn và cùng anh trai Thiên Giang - Trần Kim Bảng hoạt động trong lĩnh vực báo chí. Chính sự động viên của anh trai, người có ảnh hưởng rất lớn trong cuộc đời bà, đã thúc đẩy bà ra đời tác phẩm đầu tay "Chị Dung" năm 1949
Đến với văn chương khi đã ngoài hai mươi lăm tuổi, Hợp Phố không hề có tham vọng trở thành nhà văn. Thay vào đó, văn chương đối với bà là phương tiện để đi vào quần chúng, tuyên truyền cho cách mạng, "gióng tiếng chuông thức tỉnh tinh thần kháng chiến cho mọi tầng lớp người dân". Bà quan niệm viết văn chính là bổn phận công dân, mong muốn góp một phần công sức vào công cuộc xây dựng xã hội và khai mở tầm nhìn cho dân chúng. Với quan niệm ấy, văn phong của Hợp Phố trở nên vô cùng tự nhiên, trong trẻo, không một chút dụng công sắp xếp.
Tác phẩm "Chị Dung" vỏn vẹn chỉ 12 truyện ngắn, có truyện không quá 5 trang nhưng lại vô cùng cô đọng và súc tích. Với sự hiểu biết sâu sắc về bối cảnh quê hương, bà đã vẽ nên một cách tài tình bức tranh đời sống thành phố nhỏ Đà Nẵng những năm 1920, 1930, với những khuôn mặt thị dân góc cạnh, sắc sảo. Bà sử dụng sự chân thực và chân tình hiếm thấy để ghi lại những sự việc và con người thân thuộc bên cạnh, đôi khi nhỏ nhoi nhưng lại lột tả được ý chí quật cường của một dân tộc.
Nội dung các câu chuyện của bà đa phần xuất phát từ những chuyện thật, từ cuộc đời hoạt động của người anh trai Thiên Giang, nhóm lên ngọn lửa yêu nước trong tâm hồn mình. Bà truyền tải thông điệp về tinh thần "Thà chết cũng phải giữ trọn lời thề", không chịu làm nô lệ. Các tác phẩm của bà đã góp phần quan trọng vào việc khơi gợi lòng yêu nước trong quần chúng lao động và tầng lớp tiểu tư sản trí thức ở đô thị miền Nam lúc bấy giờ.
Sau Hiệp định Genève, đất nước tạm thời bị chia cắt (1954), Hợp Phố cùng vợ chồng anh trai Thiên Giang mở trường Minh Tâm ở Sài Gòn để tiếp tục sự nghiệp giáo dục. Đây là giai đoạn bà tích cực tham gia nhóm Nhân loại và thường xuyên viết các trang về giáo dục trẻ em, những tùy bút ngắn, đồng thời cộng tác với nhiều tờ báo có tiếng lúc bấy giờ như Đồng Nai, Bách khoa, Hồn Trẻ.
Đến những năm 1960, trong bối cảnh nền giáo dục miền Nam đang có xu hướng chuyển dịch khỏi ảnh hưởng của Pháp sang mô hình đại chúng và thực tiễn hơn, Thiên Giang cùng Hợp Phố đã khởi xướng và thực nghiệm phong trào "tân giáo dục". Bà được giao phụ trách dạy ở "Ấu trĩ viện Gia Định" – một trung tâm nuôi trẻ em nhà nghèo, mồ côi, không nơi nương tựa. Bằng tâm huyết và sự hiểu biết của mình, bà đã biến nơi đây thành một "trường Mẫu giáo thực nghiệm". Hợp Phố đã đi tiên phong trong việc áp dụng các phương pháp giáo dục tiên tiến trên thế giới như Montessory, Décroly, Freinet - gọi chung là "Phương pháp tân giáo dục". Bà tổ chức các lớp hướng dẫn phương pháp dạy Mẫu giáo, thuyết trình tại nhiều diễn đàn và thường xuyên đón tiếp các phái đoàn giáo dục nước ngoài đến tham quan, học hỏi mô hình thực nghiệm của mình.
Nhờ sự nghiệp này, Hợp Phố trở thành nhà nghiên cứu và thực hành giáo dục lĩnh vực Mẫu giáo tiên phong ở Sài Gòn. Sân trường của bà, nơi trẻ em được học hỏi bằng trải nghiệm và sự sáng tạo đã trở thành hình mẫu cho một thế hệ giáo viên mới.
Sự nghiệp giáo dục không chỉ là công việc mà còn là phương tiện để bà và anh trai tạo dựng quan hệ rộng rãi, đặc biệt là với bà con lao động nghèo khổ ở xóm Chuồng Ngựa và vùng Bà Chiểu. Bà được các em học sinh trìu mến gọi bằng cái tên thân thương: "cô giáo gù". Công việc giáo dục, từ thiện và sự quảng giao đã giúp gia đình bà tạo được thiện cảm trong nhân dân, khiến chính quyền Sài Gòn bớt dòm ngó, dù vẫn theo dõi để dè chừng. Hoạt động giáo dục, nhân ái mẫu mực này đã trở thành một vỏ bọc an toàn cho các hoạt động đấu tranh bí mật của bà.

Đại diện gia đình nhà giáo Trần Thị Hợp Phố trao tặng hiện vật cho Bảo tàng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Chiến sĩ cách mạng kiên cường giữa lòng địch
Với ảnh hưởng từ người anh trai, Hợp Phố không chỉ là nhà văn, nhà giáo mà còn là một chiến sĩ cách mạng, tích cực hoạt động trong phong trào đấu tranh đô thị tại Sài Gòn. Bà được kết kết nạp Đảng năm 1967 và là Ủy viên Ban chấp hành Hội Bảo vệ Nhân phẩm và Quyền lợi Phụ nữ.
Vóc dáng nhỏ bé, tật nguyền của bà đã trở thành một lợi thế để bà hoạt động cách mạng. Ở tuổi gần 50, bà tích cực tham gia hoạt động cứu trợ đồng bào bị nạn tại Trung tâm cứu trợ số 4 Duy Tân, trụ sở của Tổng hội Sinh viên Sài Gòn. Phần đông sinh viên gọi bà bằng cái tên yêu thương, tôn kính: má Hợp Phố bởi lẽ bà là một trong những "bà má phong trào" đầy nhiệt huyết và lòng nhân ái, một bà mẹ cách mạng hết lòng lo toan cho hoạt động đấu tranh của thanh niên, sinh viên, học sinh, luôn sát cánh cùng họ trong mọi gian nan, cam khổ.
Đến năm 1972, trong chiến dịch đánh phá cách mạng bằng nghiệp vụ tình báo và điệp báo mang tên Chiến dịch Phượng Hoàng, Hợp Phố bị bắt vì có kẻ chỉ điểm. Không cần chứng cứ, Hội đồng Phượng Hoàng tỉnh Gia Định lập tức ký lệnh bắt cô giáo Hợp Phố. Tướng người nhỏ thó, ốm yếu và tật nguyền bị giam vào tù ngục cuộc sống, sinh hoạt vô cùng khó khăn nhưng không làm bà sờn lòng, chùn bước. Bà bị giam vào Trung tâm Thẩm vấn Băng Ky, sau đó chuyển về Đề lao Gia Định. Hằng sáng, bà bị giải đến Ty Cảnh sát, hỏi cung về tổ chức Thành đoàn, về hai con trai Hoàng Đôn Nhật Tân và Hoàng Đôn Bảnh đang tham gia hoạt động cách mạng cùng các sinh viên yêu nước khác, bà một mực không khai báo. Cuối cùng, dù không tìm ra manh mối, Hội đồng Phượng Hoàng và Tòa án Quân sự lưu động vẫn kết án bà một năm tù giam về tội "gian nhân hiệp đảng".
Sau ngày đất nước thống nhất, Hợp Phố tiếp tục cống hiến cho sự nghiệp văn hóa, giáo dục và viết văn. Bà là tác giả của nhiều tập truyện và sách thiếu nhi mang đậm tính giáo dục, nhân văn. Cuộc đời hoạt động của bà để lại một di sản văn chương, giáo dục và tinh thần vô cùng quý giá. Hơn hết, di sản lớn nhất của Hợp Phố là triết lý sống và là tấm gương mẫu mực cho con cháu về tinh thần "học, học nữa, học mãi".
Khi đã goài 70, tuổi cao, sức yếu nhưng ngày nào bà cũng dành vài chục phút dạy cho các cháu nội nhỏ học tiếng Pháp. Chính sự dạy dỗ căn bản ấy đã chắp cánh cho ước mơ của các cháu bay xa. Cháu đích tôn của bà là Hoàng Đôn Xuân Việt, sau khi tốt nghiệp những ngôi trường danh giá của Pháp, đã viết thư về nhà bày tỏ: "Con vẫn nhớ những chữ Pháp đầu tiên Nội dạy cho con lúc 10 tuổi, nhờ vậy con mới được như ngày hôm nay". Tâm nguyện của bà là hướng dẫn con cháu trở thành trí thức phụng sự xã hội. Theo tư tưởng của Thiên Giang- Trần Kim Bảng, bà không muốn con cháu chỉ lấy cảnh "gia đình êm ấm" làm hạnh phúc tột bực, mà phải là "những người kiến tạo, những người tranh đấu, chịu đau khổ nhưng cảm thấy niềm vui cao khiết của kẻ anh hùng".
Nữ sĩ, nhà giáo Hợp Phố đã sống trọn vẹn 80 năm cuộc đời (1921-2001) với nghị lực phi thường và lòng yêu nước vô bờ bến. Bà đã đi xa nhưng hình ảnh một nữ nhà văn, nhà giáo, chiến sĩ cách mạng, nhỏ bé, tàn tật từ nhỏ, giàu ý chí, nghị lực, luôn lạc quan, yêu đời vẫn còn sống mãi. Bà đã vượt qua bóng tối của số phận tật nguyền, biến nghịch cảnh thành động lực, thắp lên ngọn lửa tri thức và tinh thần phấn đấu bền bỉ theo đúng tâm nguyện: giá trị đích thực của trí thức không phải là sự an nhàn cá nhân, mà là sự dấn thân, hy sinh vì lợi ích lớn lao của cộng đồng, là tinh thần không ngừng học hỏi và nỗ lực phấn đấu để kiến tạo nên một xã hội tốt đẹp hơn./.
Thu Hoàn