Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
Theo đánh giá của các chuyên gia, Chính phủ các nước đầu tư và nhận đầu tư đều đã và đang có những động thái quyết liệt trong việc cân nhắc và đưa ra các chính sách liên quan đến Quy tắc Trụ cột II về Thuế tối thiểu toàn cầu.
Thuế tối thiểu toàn cầu là một loại thuế do Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) khởi xướng và hiện nay đã được hơn 140 quốc gia đồng thuận. Với loại thuế này, các tập đoàn, công ty lớn có doanh thu từ 750 triệu euro trở lên sẽ đều phải đóng thuế 15%, dù là ở bất kỳ quốc gia nào.
Gần đây, vào ngày 15/12/2022, Liên minh châu Âu (EU) đã chính thức thông qua kế hoạch áp dụng thuế suất tối thiểu 15% từ 2024. Quốc hội Hàn Quốc cũng đã thông qua Đạo luật điều chỉnh Thuế trong đó sẽ áp dụng cơ chế thuế tối thiểu toàn cầu từ 2024. Chính phủ Nhật Bản cũng đã thông báo Dự thảo cải cách thuế, tiến tới việc áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu từ năm tài chính 2024. Đây là các quốc gia có nguồn vốn đầu tư nước ngoài lớn vào Việt Nam và do đó, việc chính thức áp dụng chính sách thuế tối thiểu toàn cầu sẽ có tác động trực tiếp tới nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư ngoài (FDI) tại Việt Nam, có thể làm ảnh hưởng sức hấp dẫn của môi trường đầu tư nước ngoài.
TS. Phan Đức Hiếu, Uỷ viên thường trực Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội cho rằng, Việt Nam cần nhanh chóng đánh giá để xác định mức độ bị tác động, từ đó đưa ra giải pháp thích hợp.
Chia sẻ ý kiến này, các chuyên gia quốc tế cho rằng, Việt Nam cần đẩy nhanh tiến trình nghiên cứu các chính sách và giải pháp cho việc thực thi quy tắc Thuế suất tối thiểu toàn cầu để không bị đánh mất quyền thu thuế, đồng thời bảo đảm hài hoà lợi ích giữa nhà nước và nhà đầu tư, khuyến khích các nhà đầu tư duy trì, mở rộng hoạt động đầu tư tại Việt Nam và tiếp tục thu hút được các dự án đầu tư trọng điểm phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong giai đoạn mới.
TS Cấn Văn Lực, chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV đưa ra các kiến nghị để "ứng xử" với Thuế suất tối thiểu toàn cầu. Theo đó, Bộ Tài chính/Tổ công tác đặc biệt cần nhanh chóng nghiên cứu, khảo sát, đánh giá tác động đầy đủ của việc áp dụng chính sách thuế tối thiểu toàn cầu này để chủ động đề xuất phương án, giải pháp phù hợp.
Cần sớm ban hành, điều chỉnh các chính sách về thuế, kế toán phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế, cũng như phù hợp với quy định trong Hiệp định mà Việt Nam đã cam kết.
Vị chuyên gia này cho rằng, cần nghiên cứu kỹ các quy tắc và hướng dẫn của OECD, xem xét xây dựng và ban hành quy định chính sách Thuế tối thiểu nội địa đạt tiêu chuẩn (QDMTT) như là một cơ chế phản ứng nhanh để bảo vệ quyền đánh thuế thay vì nhường quyền đánh thuế cho các quốc gia khác. Quy định về QMDTT có thể được xem như một cơ chế thuế song song với Thuế tối thiểu toàn cầu như trường hợp của Malaysia.
TS Cấn Văn Lực cho rằng, Việt Nam cần rà soát và thay đổi chính sách thu hút FDI theo hướng tập trung vào nâng cao năng lực cạnh tranh từ các yếu tố như cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, hỗ trợ đào tạo lao động có kỹ năng, cơ sở hạ tầng, phát triển hệ thống các doanh nghiệp vệ tinh, phụ trợ...
Dưới góc độ Hiệp hội DN nước ngoài, ông Hong Sun, Chủ tịch Korcham nhận định, rất nhiều nước hiện đã và đang thực hiện quy trình tham vấn cộng đồng và doanh nghiệp rất cởi mở về các vấn đề liên quan đến thuế tối thiểu toàn cầu.
Do đó, cơ quan chức năng của Việt Nam nên tham khảo kinh nghiệm và sớm đưa ra các tài liệu tham vấn ý kiến của doanh nghiệp cũng như của các chuyên gia kinh tế, các nhà nghiên cứu... để các đối tượng bị ảnh hưởng có thể tham gia ý kiến trong quá trình xây dựng pháp luật liên quan.
"Việc này hết sức quan trọng, giúp Nhà nước đề ra các chính sách gắn với thực tiễn, phản ánh được nguyện vọng của cộng đồng doanh nghiệp, hài hòa được lợi ích của Nhà nước và các nhà đầu tư. Cần nhanh chóng công bố các kênh thông tin chính thức để qua đó, các đối tượng bị ảnh hưởng có thể đóng góp ý kiến của mình", Chủ tịch Korcham nói.
GS.TS Vũ Minh Khương, giảng viên Trường Chính sách Công Lý Quang Diệu, Đại học Singapore nhấn mạnh, quy tắc về thuế tối thiểu toàn cầu là một thời cơ vô giá cho Việt Nam nâng cấp chiến lược và mô hình thu hút FDI.
Nhiều DN 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam có quy mô rất lớn và được hưởng ưu đãi thuế thấp hơn nhiều so với mức tối thiểu 15% nên Việt Nam đứng trước khả năng có nguồn lực bổ sung rất lớn, có thể lên tới hàng tỷ USD mỗi năm để đầu tư phát triển, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. Đồng thời, để giữ chân các nhà đầu tư và thu hút các nhà đầu tư chiến lược này, Việt Nam cần xây dựng chính sách ưu đãi, hỗ trợ để tăng sự gắn kết và sức cộng hưởng và của Việt Nam với các nhà đầu tư trong các thập kỷ tới. Việt Nam cần xác định các nhà đầu tư chiến lược là các nhà đầu tư lớn, có hoạt động nghiên cứu phát triển (R&D) và công nghệ cao để đưa ra các phương án ưu đãi, hỗ trợ hiệu quả như hỗ trợ trực tiếp để các nhà đầu tư nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và năng lực cạnh tranh, hỗ trợ đầu tư phát triển hạ tầng và nguồn nhân lực ở các địa phương…
Bà Đinh Thị Quỳnh Vân, Tổng Giám đốc Công ty kiểm toán PwC Việt Nam nhấn mạnh, cần phải có một hệ thống chính sách ưu đãi đầu tư mới để ngăn chặn việc các lợi ích ưu đãi thuế do Việt Nam cấp bị chuyển sang các nước khác cũng như bảo đảm khả năng cạnh tranh của việc thu hút FDI vào Việt Nam.
Cụ thể, Việt Nam nên giới thiệu một chính sách ưu đãi đầu tư mới với các khoản trợ cấp hoặc khấu trừ thuế mang tính chất trợ cấp đủ điều kiện với các khoản trợ cấp thuế được hoàn lại được coi là thu nhập theo các quy tắc của GloBE áp dụng cho việc thực hiện thuế suất tối thiểu toàn cầu.
"Các sáng kiến cải cách thuế như vậy sẽ giúp Việt Nam duy trì quyền đánh thuế và đồng thời thu hút nhiều vốn đầu tư hơn từ các công ty đa quốc gia bằng cách giảm chi phí vốn và thúc đẩy các công ty tham gia vào các lĩnh vực công nghệ cao cần thiết cho tăng trưởng kinh tế quốc gia, từ đó tích lũy công nghệ, kinh nghiệm và bí quyết tại Việt Nam", Tổng giám đốc PwC nói.
Anh Minh