• An Giang
  • Bình Dương
  • Bình Phước
  • Bình Thuận
  • Bình Định
  • Bạc Liêu
  • Bắc Giang
  • Bắc Kạn
  • Bắc Ninh
  • Bến Tre
  • Cao Bằng
  • Cà Mau
  • Cần Thơ
  • Điện Biên
  • Đà Nẵng
  • Đà Lạt
  • Đắk Lắk
  • Đắk Nông
  • Đồng Nai
  • Đồng Tháp
  • Gia Lai
  • Hà Nội
  • Hồ Chí Minh
  • Hà Giang
  • Hà Nam
  • Hà Tây
  • Hà Tĩnh
  • Hòa Bình
  • Hưng Yên
  • Hải Dương
  • Hải Phòng
  • Hậu Giang
  • Khánh Hòa
  • Kiên Giang
  • Kon Tum
  • Lai Châu
  • Long An
  • Lào Cai
  • Lâm Đồng
  • Lạng Sơn
  • Nam Định
  • Nghệ An
  • Ninh Bình
  • Ninh Thuận
  • Phú Thọ
  • Phú Yên
  • Quảng Bình
  • Quảng Nam
  • Quảng Ngãi
  • Quảng Ninh
  • Quảng Trị
  • Sóc Trăng
  • Sơn La
  • Thanh Hóa
  • Thái Bình
  • Thái Nguyên
  • Thừa Thiên Huế
  • Tiền Giang
  • Trà Vinh
  • Tuyên Quang
  • Tây Ninh
  • Vĩnh Long
  • Vĩnh Phúc
  • Vũng Tàu
  • Yên Bái

Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai

(Chinhphu.vn) - Bà Nguyễn Thanh Hằng (tỉnh Hải Dương) nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của ông Trần Quang Hà, trong đó có một lối đi chung với nhà ông Hà. Khi UBND huyện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà lại không thể hiện có lối đi chung này, mặc dù trong bản đồ địa chính có thể hiện ngõ đi chung từ nhà bà Hằng ra đường của thôn.

15/11/2013 08:20
Ảnh minh hoạ

Bà Hằng hỏi, việc tranh chấp ngõ đi chung thuộc thẩm quyền giải quyết ở đâu, và thủ tục như thế nào?

Luật sư Trần Văn Toàn, Văn phòng Luật sư Khánh Hưng - Đoàn Luật sư Hà Nội giải đáp thắc mắc của bà Hằng như sau:

Thông tin bà Nguyễn Thanh Hằng cung cấp chưa thể hiện rõ có hay không việc tranh chấp về lối đi chung giữa bà với ông Trần Quang Hà. Vì theo quy định tại Điều 48 Nghị định 181/2004/NĐ-CP, khi có tranh chấp về quyền sử dụng đất (QSDĐ) mà chưa được giải quyết thì chưa cấp Giấy chứng nhận QSDĐ.

Trường hợp trong hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa ông Hà với bà Hằng có thỏa thuận rõ về lối đi chung của hai nhà, mà lối đi đó trước đây thuộc quyền sử dụng của ông Hà có thể hiện trên giấy tờ về đất, bản đồ và sổ địa chính của địa phương, hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ không có tranh chấp, thì việc Giấy chứng nhận QSDĐ cấp cho bà Hằng mà không ghi nhận và thể hiện trên Giấy chứng nhận thông tin về lối đi chung là có sai sót.  

Căn cứ khoản 1 Điều 25 Nghị định số 88/2009/NĐ-CP, khi phát hiện nội dung ghi trên Giấy chứng nhận đã cấp có sai sót thì Phòng Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm đính chính đối với Giấy chứng nhận do UBND cấp huyện cấp. Vì vậy, bà Hằng cần làm đơn gửi Văn phòng đăng ký QSDĐ huyện yêu cầu đính chính Giấy chứng nhận.

Việc giải quyết tranh chấp đất đai

Trường hợp có tranh chấp về quyền sử dụng đất hoặc tranh chấp về quyền nghĩa vụ phát sinh trong quá trình sử dụng đất liên quan đến hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ thì việc xác định cơ quan nào có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai phải căn cứ vào việc các bên tranh chấp có hay không có Giấy chứng nhận QSDĐ hoặc một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai

- Thẩm quyền của Tòa án nhân dân: Theo quy định tại khoản 1 Điều 136 Luật Đất đai, các tranh chấp về QSDĐ mà người sử dụng đất đã có Giấy chứng nhận QSDĐ hoặc một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai và tranh chấp về tài sản gắn liền với việc sử dụng đất đó thì do Toà án nhân dân cấp huyện nơi có đất giải quyết.

Tòa án chỉ giải quyết khi có Biên bản hòa giải không thành của UBND cấp xã, có chữ ký của các bên.

Căn cứ Điều 164 Bộ Luật Tố tụng dân sự, cá nhân khởi kiện phải làm đơn khởi kiện. Đơn khởi kiện phải có các nội dung chính sau đây: Ngày, tháng, năm làm đơn khởi kiện; Tên Tòa án nhận đơn khởi kiện; Tên, địa chỉ của người khởi kiện; Tên, địa chỉ của người có quyền và lợi ích được bảo vệ, nếu có; Tên, địa chỉ của người bị kiện; Tên, địa chỉ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, nếu có; Những vấn đề cụ thể yêu cầu Tòa án giải quyết đối với bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; Họ, tên, địa chỉ của người làm chứng, nếu có. Kèm theo các tài liệu chứng cứ thể hiện việc khởi kiện là có căn cứ và đúng pháp luật.

- Thẩm quyền giải quyết của Chủ tịch UBND cấp huyện: Theo khoản 2 Điều 136 Luật Đất đai và khoản 1, Điều 160 Nghị định 181/2004/NĐ-CP, Chủ tịch UBND cấp huyện giải quyết tranh chấp đất đai giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với nhau, sau khi UBND cấp xã hòa giải không thành và các bên tranh chấp không có Giấy chứng nhận QSDĐ hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003.

Hồ sơ gửi UBND cấp huyện giải quyết tranh chấp đất đai gồm: Đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp; Các văn bản có liên quan của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan giám sát trong quá trình giải quyết tranh chấp (nếu có); Biên bản hoà giải không thành, biên bản làm việc với các bên tranh chấp và người có liên quan; Biên bản kiểm tra hiện trạng đất tranh chấp; Bản trích lục bản đồ giải thửa phần đất tranh chấp do cơ quan lưu trữ địa chính cung cấp (ghi chú đầy đủ số tờ, giải thửa, diện tích…); Biên bản làm việc, đối thoại với các bên tranh chấp.

Nếu bà Nguyễn Thanh Hằng và ông Trần Quang Hà có tranh chấp lối đi chung thì bà Hằng cần làm đơn gửi UBND cấp xã nơi có đất tổ chức hòa giải tranh chấp đất đai theo quy định tại Điều 135 Luật Đất đai và Điều 159 Nghị định 181/2004/NĐ-CP.

Trường hợp UBND cấp xã hòa giải không thành; căn cứ khoản 1, Điều 136 Luật Đất đai, do bà Hằng đã được cấp Giấy chứng nhận QSDĐ, nên thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai thuộc Tòa án, bà Hằng có thể gửi đơn khởi kiện đến Toà án nhân dân cấp huyện nơi có đất yêu cầu giải quyết.

Luật sư Trần Văn Toàn

VPLS Khánh Hưng – Đoàn luật sư Hà Nội

* Thông tin chuyên mục có giá trị tham khảo với người đọc, không dùng làm tài liệu trong tố tụng pháp luật.