Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
Ông Nguyễn Văn Lưu (Hà Nội) đề nghị cơ quan chức năng hướng dẫn tình huống trong đấu thầu như sau:
Nhà thầu tham gia dự thầu có gửi kèm thư bảo lãnh dự thầu của ngân hàng với số tiền bảo lãnh và thời gian hiệu lực đúng yêu cầu hồ sơ mời thầu. Nhưng các điều kiện không được hoàn trả bảo lãnh dự thầu không bao gồm nội dung: “Nhà thầu vi phạm pháp luật về đấu thầu dẫn đến phải hủy thầu theo quy định tại Điểm D Mục 36.1 - Chỉ dẫn nhà thầu của hồ sơ mời thầu”.
Bên mời thầu đánh giá nội dung trên là kèm theo điều kiện gây bất lợi cho bên mời thầu theo hướng dẫn Mục 19.3 CDNT Mẫu số 01 ban hành kèm theo Thông tư số 03/2015/TT-BKHĐT và kết luận bảo đảm dự thầu không hợp lệ để loại nhà thầu.
Ông Lưu hỏi, nội dung đánh giá trên của bên mời thầu có đúng quy định không?
Bộ Kế hoạch và Đầu tư trả lời vấn đề này như sau:
Khoản 1, Điều 15 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP của Chính phủ quy định việc đánh giá hồ sơ dự thầu phải căn cứ vào tiêu chuẩn đánh giá hồ sơ dự thầu và các yêu cầu khác trong hồ sơ mời thầu, căn cứ vào hồ sơ dự thầu đã nộp, các tài liệu giải thích, làm rõ hồ sơ dự thầu của nhà thầu để bảo đảm lựa chọn được nhà thầu có đủ năng lực và kinh nghiệm, có giải pháp khả thi để thực hiện gói thầu.
Theo hướng dẫn tại khoản 19.3 Mục 19 Chương I Mẫu hồ sơ mời thầu xây lắp số 01 ban hành kèm theo Thông tư số 03/2015/TT-BKHĐT ngày 6/5/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư thì bảo đảm dự thầu được coi là không hợp lệ khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
Có giá trị thấp hơn, thời gian hiệu lực ngắn hơn so với yêu cầu quy định tại Mục 19.2 CDNT, không đúng tên bên mời thầu (đơn vị thụ hưởng), không phải là bản gốc và không có chữ ký hợp lệ hoặc có kèm theo điều kiện gây bất lợi cho bên mời thầu.
Đối với vấn đề của ông Lưu, việc đánh giá hồ sơ dự thầu được thực hiện theo quy định nêu trên và thuộc trách nhiệm của bên mời thầu, tổ chuyên gia (Điều 75 và Điều 76 Luật Đấu thầu).