• An Giang
  • Bình Dương
  • Bình Phước
  • Bình Thuận
  • Bình Định
  • Bạc Liêu
  • Bắc Giang
  • Bắc Kạn
  • Bắc Ninh
  • Bến Tre
  • Cao Bằng
  • Cà Mau
  • Cần Thơ
  • Điện Biên
  • Đà Nẵng
  • Đà Lạt
  • Đắk Lắk
  • Đắk Nông
  • Đồng Nai
  • Đồng Tháp
  • Gia Lai
  • Hà Nội
  • Hồ Chí Minh
  • Hà Giang
  • Hà Nam
  • Hà Tây
  • Hà Tĩnh
  • Hòa Bình
  • Hưng Yên
  • Hải Dương
  • Hải Phòng
  • Hậu Giang
  • Khánh Hòa
  • Kiên Giang
  • Kon Tum
  • Lai Châu
  • Long An
  • Lào Cai
  • Lâm Đồng
  • Lạng Sơn
  • Nam Định
  • Nghệ An
  • Ninh Bình
  • Ninh Thuận
  • Phú Thọ
  • Phú Yên
  • Quảng Bình
  • Quảng Nam
  • Quảng Ngãi
  • Quảng Ninh
  • Quảng Trị
  • Sóc Trăng
  • Sơn La
  • Thanh Hóa
  • Thái Bình
  • Thái Nguyên
  • Thừa Thiên Huế
  • Tiền Giang
  • Trà Vinh
  • Tuyên Quang
  • Tây Ninh
  • Vĩnh Long
  • Vĩnh Phúc
  • Vũng Tàu
  • Yên Bái

Từ 'Trái tim trên mâm pháo' đến cuộc đời nhà giáo bình dị

(Chinhphu.vn) - Từng là “thi thể thứ 21” trên trận địa Mường Ngà năm 1967, người pháo thủ Nguyễn Thùy đã không chết. Ông bước vào “cuộc đời thứ hai” – một trận chiến dai dẳng với những mảnh bom trong sọ não và một cuộc đời nhà giáo Đại học Bách Khoa đầy “tâm đức”. Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, người pháo thủ năm xưa giờ đã ở tuổi 80, nhưng câu chuyện về ông vẫn vẹn nguyên giá trị của một bản hùng ca về lý tưởng, nghị lực và tình yêu cuộc sống.

19/11/2025 13:37
Từ 'Trái tim trên mâm pháo' đến cuộc đời nhà giáo bình dị- Ảnh 1.

Nhật ký của nhà giáo Nguyễn Thùy

 

Từ thư sinh Hàn Thuyên đến pháo thủ Tây Bắc

Nguyễn Thùy sinh ngày 22 tháng 8 năm 1944 tại Bắc Ninh, trong một gia đình công nông. Những năm tháng kháng chiến chống Pháp, cậu bé Thùy theo gia đình tản cư lên vùng Yên Thế. Hòa bình lập lại, ông theo học tại trường Hàn Thuyên nổi tiếng ở Bắc Ninh.

Năm 1963, vừa học hết phổ thông hệ 10 năm, chàng thanh niên Nguyễn Thùy đã cùng bạn bè xung phong nhập ngũ, trở thành bộ đội Cao xạ pháo, bảo vệ vùng trời Tây Bắc.

Những ngày đầu trong quân ngũ, ông được biên chế cùng Đại đội 3, Tiểu đoàn 24 pháo cao xạ 37 ly. Đơn vị ông đóng trên một đỉnh đồi giữa thị xã Sơn La. Tại đây, ông có một kỷ niệm thú vị khi ở cùng đại đội với nhà thơ nổi tiếng sau này là Phạm Tiến Duật. Nguyễn Thùy và Phạm Tiến Duật có khuôn mặt và sống mũi cao giống nhau đến mức nhiều người nhầm lẫn. Thậm chí, nhiều thập niên sau, khi Nguyễn Thùy về dự lễ kỷ niệm, nhiều cựu chiến binh vẫn chạy đến gọi tên... Phạm Tiến Duật.

Dù là đơn vị pháo kỹ thuật, đòi hỏi trình độ văn hóa, nhưng phần đông chiến sĩ chỉ mới biết đọc, biết viết. Đại đội nổi lên hai người: Phạm Tiến Duật đã tốt nghiệp Đại học Sư phạm và Nguyễn Thùy, người vừa tốt nghiệp cấp 3, giỏi về kỹ thuật và tính toán.

Những dòng nhật ký đầu tiên của ông được viết vào ngày 8 tháng 3 năm 1965, ghi lại không khí náo nức của Sơn La và cả những băn khoăn của một người lính trẻ. Ông tha thiết mong được ra trận, được "giáp mặt với quân thù". Trong nhật ký, ông liên tục bày tỏ sự sốt ruột khi nghe "Tin chiến thắng Quân khu 4 liên tiếp dội về" hay khi thấy mình chưa được biên chế lại để chiến đấu. Ông viết: "Mình nóng lòng mong đợi. Mình tha thiết mong đợi được đi chiến đấu".

Khát khao đó sớm được đáp ứng. Những trang nhật ký sau đó là lửa đạn, là "ăn bụi ngủ bờ", là những ngày "quần áo hôi mù mà chưa được tắm", là những cuộc hành quân "cơm vắt nằm sương".

Ngày 7 tháng 9 năm 1965, ông lên đường sang Lào, bắt đầu giai đoạn chiến đấu mới trên nước bạn. Tại đây, ông là pháo thủ Số 2 (quay tầm), cùng đồng đội "trực tiếp đối mặt, dũng cảm chiến đấu hàng trăm trận đánh với máy bay Mỹ". Ông gọi đó là "Những năm tháng đẹp nhất cuộc đời" mình.

"Thi thể thứ 21" và nghị lực phi thường

Những năm tháng đẹp nhất ấy cũng là những năm tháng khốc liệt nhất. Trận chiến ngày 31 tháng 10 năm 1967 tại Mường Ngà (Sầm Nưa, Lào) đã trở thành một định mệnh.

Trận đánh diễn ra ác liệt. Máy bay địch đánh trúng trận địa, bộ đội ta hy sinh rất nhiều. Trong giờ phút sinh tử, Trung đội phó Nguyễn Thùy, lúc đó đang đứng dưới công sự, đã không ngần ngại "nhảy lên mâm pháo, để thay thế một pháo thủ ở vị trí cao nhất".

Ngay lúc đó, "Một quả bom bi đã nổ ngay trên đầu anh".

Chiếc mũ sắt méo mó, thủng nhiều lỗ. Mảnh bom găm khắp người ông. Vết thương nặng nhất là tại ngực phải, một viên bi làm gãy xương sườn và xuyên qua phổi ra sau lưng. Ông gục xuống, khuôn mặt đầy máu tươi.

Trận đó, 20 cán bộ chiến sĩ trong Đại đội đã hy sinh tại chỗ. Khi đồng đội khiêng "thi thể thứ 21" lên cáng để chuẩn bị đưa đi mai táng, họ bàng hoàng phát hiện ra "cái xác" ấy vẫn còn thở thoi thóp.

Đó chính là Nguyễn Thùy.

Ông hôn mê suốt một tuần mới tỉnh. Sau cả tháng trời nằm tại Viện 951 trên đất Lào, ông được chuyển về nước điều trị tại Viện Quân y 5. Chỉ hai tháng sau ngày bị thương, "nhờ sức trẻ và nghị lực phi thường", Nguyễn Thùy đã được xuất viện.

Nhưng những mảnh bom bi ấy vẫn còn nằm lại trong cơ thể ông. Chúng không giết chết ông trên trận địa Mường Ngà, nhưng chúng bắt đầu một cuộc chiến dai dẳng hàng chục năm sau.

Từ 'Trái tim trên mâm pháo' đến cuộc đời nhà giáo bình dị- Ảnh 2.

Nhà giáo Nguyễn Thùy trong buổi giới thiệu về cuốn sách của mình.

Cuộc đời thứ hai: Nhà giáo Bách Khoa

Giữa tháng 7 năm 1968, vì không đủ sức khỏe trở lại đơn vị, người lính trẻ Nguyễn Thùy nhận quyết định xuất ngũ, về học tại khoa Toán Lý, Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội. Mất cả tháng trời, người thương binh trẻ mới quen được "sự hụt hẫng, trống vắng vì nhớ đồng đội và đơn vị cũ".

Chính tại cơ sở học dự bị ở Hưng Yên, ông đã gặp "cái may" của đời mình. Ông học cùng nữ sinh viên Nguyễn Thị Cúc, một cô gái xinh đẹp quê Thái Bình. Bà Cúc cũng xuất thân trong một gia đình giàu truyền thống Cách mạng: cha là Liệt sĩ Nguyễn Quang Trung, hy sinh năm 1952 trong kháng chiến chống Pháp. Có lẽ vì sự đồng điệu đó, "chị Nguyễn Thị Cúc có cảm tình với anh thương binh Nguyễn Thùy, ngay từ lần gặp gỡ đầu tiên".

Ngày 30 tháng 12 năm 1974, ngay sau khi tốt nghiệp, đám cưới của họ được tổ chức đơn giản, tiết kiệm thời chiến.

Hạnh phúc chưa được bao lâu, đôi vợ chồng trẻ đã phải xa nhau. Kỹ sư Nguyễn Thị Cúc về Viện Kỹ thuật Giao thông, còn Kỹ sư Nguyễn Thùy được giữ lại trường làm giảng viên, kiêm Phó Bí thư Đoàn trường Bách Khoa.

Người lính năm nào lại "tiếp lửa" cho sinh viên. Ông dẫn đầu phong trào Đoàn tham gia lao động tại các công trình công cộng của Hà Nội: Đào đắp đường Thanh niên, sông Lừ, hồ Bẫy Mẫu, hồ Thành Công, hồ Thủ Lệ....

Nhưng cũng chính thời gian này, do lao động quá sức, vết thương cũ tái phát. "Những mảnh đạn trong sọ não bắt đầu hành hạ Nguyễn Thùy". Ông thường xuyên bị động kinh, "lăn quay ra đường bất tỉnh". Nhiều lần, người đi đường phải đưa ông vào đồn Công an, vợ ông đến đón về nhà mà ông vẫn chưa tỉnh.

Thấy vậy, lãnh đạo Trường Đại học Bách khoa đã đề nghị và tiếp nhận Kỹ sư Nguyễn Thị Cúc về làm Giảng viên Thực nghiệm, để bà "tiện chăm sóc sức khỏe cho chồng".

Năm 1982, ông được bổ nhiệm làm Phó phòng Quản lý Sinh viên. Ông nổi tiếng là người thầy có "tâm đức", "chưa hề nhận của ai một điếu thuốc hay gói quà cảm ơn". Ông đã nhiều lần cứu giúp, giải oan cho các sinh viên vướng vào "vụ việc 'tình ngay lý gian'". Có sinh viên nghèo bị nghi ăn cắp xe, nhà trường cho thôi học. Chính ông Nguyễn Thùy đã trực tiếp về tận quê sinh viên này để xác minh, thấy gia đình nền nếp, hàng xóm khen ngợi, ông xác định sinh viên bị oan và đề nghị nhà trường khôi phục quyền lợi cho em. Người sinh viên đó sau này đã lấy bằng Tiến sĩ, làm việc ở cơ quan uy tín.

Đến hôm nay, dù đã qua tuổi 80 và trong não "vẫn còn một viên bi từ bom Mỹ năm xưa", trí nhớ của nhà giáo Nguyễn Thùy "không hề giảm sút". Ông vẫn nhớ được hàng trăm số điện thoại của bạn bè.

Ông bà có một gia đình hạnh phúc ở tuổi xế chiều. Cả ba cô con gái của ông bà đều nối nghiệp, tốt nghiệp và công tác tại các cơ quan, trường đại học lớn. Một điều thú vị là cả ba chàng rể của ông bà cũng đều là kỹ sư tốt nghiệp Đại học Bách khoa Hà Nội. Bà Cúc tự hào nói về "gia đình 8 người Bách Khoa" của mình.

Để có được gia đình như hôm nay là cả một quá trình nỗ lực phi thường. Những năm 80-90, để có tiền trợ giúp vợ con, ngoài giờ giảng dạy, thương binh Nguyễn Thùy đã "dành thời gian buổi tối cuốn dây biến thế cho nhà trường". Ông làm miệt mài 10 năm liền, chỉ đến khi đổ bệnh phải mổ sọ não năm 1993 mới thôi. Từ năm 1991, bà Cúc cũng tự tổ chức lớp học thêm tại nhà, mời thầy giỏi về dạy, vừa để "luyện thi" cho con, vừa có thêm thu nhập trang trải.

Ngồi trong ngôi nhà ở hẻm Tạ Quang Bửu, nhà giáo Nguyễn Thùy tâm sự: "Đời này, kiếp này tôi biết người vợ tào khang của mình. Nếu không có bà ấy, thì tôi đã chết từ lâu rồi".

Chu Văn Khánh