Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
Ảnh minh hoạ |
Luật sư Lê Văn Đài, Văn phòng luật sư Khánh Hưng - Đoàn luật sư Hà Nội trả lời ông Tuấn như sau:
Theo quy định tại Điều 27 Luật Hôn nhân và Gia đình, tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thoả thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất.
Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ chồng.
Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung.
Trường hợp ông Tuấn trong thời kỳ hôn nhân có nhận chuyển nhượng 2 thửa đất nhưng chỉ một mình ông đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, ông thừa nhận đó là tài sản chung của vợ chồng.
Theo ông trình bày, vợ ông đã nộp đơn xin ly hôn ông, khi Toà án đang thụ lý thì vợ ông đi nước ngoài nên việc ly hôn chưa được giải quyết. Như vậy hiện nay ông Tuấn và vợ chưa được Toà án công nhận hoặc quyết định cho ly hôn, chấm dứt quan hệ hôn nhân theo yêu cầu của vợ hoặc của chồng hoặc cả hai vợ chồng.
Theo quy định tại Điều 28 Luật Hôn nhân và Gia đình, khi quan hệ hôn nhân đang tồn tại, vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung. Việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình, việc dùng tài sản chung để đầu tư kinh doanh phải được vợ chồng bàn bạc, thoả thuận.
Trường hợp ông Tuấn muốn chuyển nhượng quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng để lấy vốn đầu tư sản xuất kinh doanh phải bàn bạc, thỏa thuận với vợ. Cả ông Tuấn và vợ ông Tuấn phải cùng đứng tên bên chuyển nhượng trong hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, ký kết hợp đồng với bên nhận chuyển nhượng tại một tổ chức công chứng nơi có đất và thực hiện thủ tục đăng ký biến động, sang tên đổi chủ theo quy định chung.
Luật sư Lê Văn Đài
VPLS Khánh Hưng – Đoàn luật sư Hà Nội
* Thông tin chuyên mục có giá trị tham khảo với người đọc, không dùng làm tài liệu trong tố tụng pháp luật