Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ

Kéo dài thời gian giải quyết chính sách, chế độ với người làm việc ngoài chỉ tiêu biên chế tại các Hội do Đảng và Nhà nước giao nhiệm vụ ở cấp tỉnh, cấp huyện trước ngày 1/7/2025
Chính phủ ban hành Nghị quyết số 405/NQ-CP ngày 10/12/2025 về kéo dài thời gian giải quyết chính sách, chế độ với người làm việc ngoài chỉ tiêu biên chế tại các Hội do Đảng và Nhà nước giao nhiệm vụ ở cấp tỉnh, cấp huyện trước ngày 1/7/2025 theo quy định tại Nghị quyết số 07/2025/NQ-CP ngày 17/9/2025.
Cụ thể, Chính phủ quyết nghị kéo dài thời gian giải quyết chính sách, chế độ đối với người làm việc ngoài chỉ tiêu biên chế tại các Hội do Đảng và Nhà nước giao nhiệm vụ ở cấp tỉnh, cấp huyện trước ngày 1/7/2025 theo quy định tại Nghị quyết số 07/2025/NQ-CP ngày 17/9/2025 của Chính phủ về chính sách, chế độ đối với đối tượng chịu sự tác động do thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy, đơn vị hành chính các cấp theo Kết luận số 183-KL/TW ngày 1/8/2025 của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, đảm bảo hoàn thành việc chi trả chính sách, chế độ muộn nhất là ngày 31/12/2025.

Giao chỉ tiêu phát triển đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội đến năm 2030 cho các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
Chính phủ vừa ban hành Nghị quyết số 403/NQ-CP ngày 10/12/2025 giao chỉ tiêu phát triển đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội đến năm 2030 cho các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Đến năm 2030 cả nước có 29.334.000 người tham gia bảo hiểm xã hội
Chính phủ giao chỉ tiêu phát triển đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội đến năm 2030 cho từng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Tính chung cả nước, chỉ tiêu phát triển đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội chung là 29.334.000 người; trong đó chỉ tiêu bảo hiểm xã hội tự nguyện tối thiểu là 2.444.500 người.

Tháo gỡ vướng mắc trong thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội
Chính phủ yêu cầu Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính và các Bộ, cơ quan liên quan rà soát các khó khăn, vướng mắc, bất cập trong việc tổ chức thực hiện các cơ chế, chính sách phát triển đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội để tiếp tục nghiên cứu, đề xuất hoàn thiện chính sách, pháp luật về bảo hiểm xã hội để mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, khuyến khích, hỗ trợ người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện, bảo đảm khả thi, phù hợp với thực tiễn.
Tăng cường chỉ đạo và triển khai thực hiện các giải pháp đổi mới toàn diện nội dung, hình thức, phương pháp tuyên truyền hướng đến tất cả cán bộ, đảng viên, nhân dân hiểu rõ lợi ích, vai trò, ý nghĩa của chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội.
Đồng thời, Bộ Nội vụ kịp thời hướng dẫn, tháo gỡ vướng mắc trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về bảo hiểm xã hội. Trường hợp vượt quá thẩm quyền thì báo cáo cấp có thẩm quyền; chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương tổ chức sơ kết việc thực hiện Nghị quyết này trước ngày 31 tháng 7 năm 2028; tổng kết việc thực hiện Nghị quyết này trước ngày 31 tháng 01 năm 2031.
Tạo thuận lợi nhất cho người lao động thực hiện các thủ tục về bảo hiểm xã hội
Bộ Tài chính bố trí đầy đủ, kịp thời ngân sách để đóng bảo hiểm xã hội, hỗ trợ tiền đóng cho người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện theo quy định.
Bộ Tài chính chỉ đạo Bảo hiểm xã hội Việt Nam chủ động, tích cực tổ chức triển khai thực hiện tốt chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội và chịu trách nhiệm trước Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ về việc mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội; chủ động tham mưu, đề xuất với các bộ, ngành về những giải pháp, cơ chế, chính sách để phát triển đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội và phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan triển khai thực hiện.
Đồng thời, Bộ Tài chính chỉ đạo Bảo hiểm xã hội Việt Nam đẩy mạnh phối hợp tổ chức các hoạt động tuyên truyền, đổi mới hình thức, nội dung tuyên truyền dưới nhiều hình thức để cấp ủy đảng, chính quyền, các cơ quan, tổ chức, đoàn thể, người dân, doanh nghiệp nắm vững về ý nghĩa, tầm quan trọng của bảo hiểm xã hội và nghĩa vụ của mỗi cá nhân, tổ chức trong việc tham gia bảo hiểm xã hội.
Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính, tăng cường ứng dụng khoa học, công nghệ và chuyển đổi số để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người lao động và người sử dụng lao động thực hiện các thủ tục về bảo hiểm xã hội.
Kiểm tra việc chấp hành pháp luật về bảo hiểm xã hội tại các cơ quan, đơn vị, tổ chức sử dụng lao động, xử lý kịp thời các hành vi vi phạm theo quy định của pháp luật; chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc bảo hiểm xã hội các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tổ chức triển khai thực hiện các giải pháp phát triển đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội.
Định kỳ 06 tháng, tổ chức sơ kết, đánh giá và kịp thời thông tin, báo cáo các cấp, các ngành về kết quả thực hiện mở rộng diện bao phủ bảo hiểm xã hội. Báo cáo kết quả thực hiện Nghị quyết này với Bộ Nội vụ trong Báo cáo về tình hình thực hiện chính sách, chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm xã hội tự nguyện, bảo hiểm thất nghiệp theo quy định tại điểm b khoản 12 Điều 18 Luật Bảo hiểm xã hội; thời hạn báo cáo trước ngày 30 tháng 6 và ngày 31 tháng 12 hằng năm.
Xử lý quyết liệt tình trạng chậm đóng, trốn đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc
Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hằng năm, xây dựng chỉ tiêu phát triển đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm xã hội tự nguyện trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trình Hội đồng nhân dân cùng cấp xem xét, ban hành; bảo đảm đến năm 2030, số người tham gia bảo hiểm xã hội không thấp hơn chỉ tiêu được giao. Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có trách nhiệm chỉ đạo, tổ chức thực hiện và chịu trách nhiệm trước Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Hội đồng nhân dân cùng cấp về việc hoàn thành chỉ tiêu phát triển đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội trên địa bàn.
Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chỉ đạo các sở, ban, ngành có liên quan xây dựng kế hoạch và giải pháp triển khai thực hiện để đạt được chỉ tiêu được giao. Thường xuyên phối hợp, trao đổi, cung cấp thông tin về dân cư, lao động, tiền lương, thuế, đăng ký doanh nghiệp trên địa bàn để rà soát, đối chiếu và xử lý quyết liệt tình trạng chậm đóng, trốn đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc.
Trên cơ sở điều kiện kinh tế - xã hội, khả năng cân đối ngân sách, kết hợp huy động các nguồn lực xã hội, trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định hỗ trợ thêm tiền đóng bảo hiểm xã hội cho người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện.
Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật, thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội trên địa bàn. Giao chỉ tiêu phát triển đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội đến năm 2030 cho Ủy ban nhân dân cấp xã.
Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thành lập, kiện toàn, phát huy vai trò của Ban chỉ đạo thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp trên địa bàn mỗi cấp tỉnh, cấp xã; đồng chí Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp xã làm Trưởng ban.
Hằng năm, tổ chức sơ kết, đánh giá kết quả phát triển đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tại địa phương; trước ngày 30 tháng 12, xây dựng báo cáo kết quả thực hiện Nghị quyết này là một nội dung trong báo cáo tình hình thực hiện Nghị quyết số 125/NQ-CP ngày 08 tháng 10 năm 2018 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23 tháng 5 năm 2018 của Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Khóa XII về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội, gửi Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính.
Chính phủ đề nghị Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội phối hợp với chính quyền các cấp đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động nhân dân, đoàn viên, hội viên tham gia bảo hiểm xã hội; vận động các nguồn lực để hỗ trợ đoàn viên, hội viên tham gia bảo hiểm xã hội; phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo hiểm xã hội.

Quản lý và sử dụng viện trợ không hoàn lại không thuộc hỗ trợ phát triển chính thức của cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài dành cho Việt Nam
Chính phủ ban hành Nghị định số 313/2025/NĐ-CP ngày 8/12/2025 quy định về quản lý và sử dụng viện trợ không hoàn lại không thuộc hỗ trợ phát triển chính thức của cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài dành cho Việt Nam.
Nghị định 313/2025/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 8/12/2025; thay thế Nghị định số 80/2020/NĐ-CP ngày 08/7/2020 nhằm khắc phục những quy định bất cập hiện nay; đồng thời, đảm bảo tuân thủ quy định của Hiến pháp, Luật Ngân sách Nhà nước và đồng bộ, thống nhất với các Luật, Nghị định, Nghị quyết mới được ban hành, sửa đổi, bổ sung; bám sát và quán triệt toàn diện, đầy đủ các chỉ đạo, định hướng của Bộ Chính trị, Chính phủ tại Nghị quyết số 57-NQ/TW; Chỉ thị số 49-CT/TW và các văn bản liên quan.
Cụ thể, Nghị định 313/2025/NĐ-CP quy định về quản lý và sử dụng viện trợ không hoàn lại không thuộc hỗ trợ phát triển chính thức của các cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài dành cho các cơ quan, tổ chức được thành lập hợp pháp tại Việt Nam nhằm mục đích phát triển kinh tế - xã hội, hỗ trợ nhân đạo, không vì mục đích lợi nhuận, thương mại.
Các trường hợp không thuộc phạm vi điều chỉnh của Nghị định 313/2025/NĐ-CP gồm:
a) Các khoản viện trợ không hoàn lại của các cơ quan, tổ chức nước ngoài mà việc tiếp nhận phải được ký kết chính thức theo quy định của Luật Điều ước quốc tế và các khoản viện trợ không hoàn lại trong các thỏa thuận về vốn ODA phải được ký kết nhân danh Nhà nước hoặc Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
b) Các khoản quà biếu, quà tặng cho cá nhân, tổ chức không vì mục đích phát triển kinh tế - xã hội, hỗ trợ nhân đạo, từ thiện;
c) Các khoản tài trợ có phát sinh lợi nhuận để phân chia theo các hình thức: thỏa thuận hợp tác, hợp đồng dịch vụ, hợp đồng chuyển giao công nghệ;
d) Các cá nhân tiếp nhận tài trợ cho hoạt động nghiên cứu khoa học thực hiện theo Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo;
đ) Viện trợ quốc tế khẩn cấp của Chính phủ, tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ nước ngoài, cá nhân nước ngoài để cứu trợ được phê duyệt và thực hiện trong thời gian 03 tháng kể từ khi xảy ra thiên tai và viện trợ quốc tế khẩn cấp để khắc phục hậu quả thiên tai được phê duyệt và thực hiện trong thời gian 09 tháng kể từ khi xảy ra thiên tai.
Nguyên tắc trong quản lý và sử dụng viện trợ
Nghị định 313/2025/NĐ-CP quy định: Quản lý và sử dụng viện trợ phải tuân thủ pháp luật Việt Nam. Các khoản viện trợ chỉ được tiếp nhận, thực hiện, sử dụng khi đã được cấp có thẩm quyền của Việt Nam phê duyệt. Nguồn tiền viện trợ phải là nguồn tiền, tài sản hợp pháp.
Không tiếp nhận những hàng hóa (kể cả vật tư, thiết bị) thuộc danh mục các mặt hàng cấm nhập khẩu theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Cơ quan chủ quản chịu trách nhiệm toàn diện trong tiếp nhận, quản lý và sử dụng hiệu quả khoản viện trợ.
Dòng tiền tiếp nhận và chi ra cho khoản viện trợ phải được thực hiện thông qua tài khoản tiếp nhận viện trợ, bảo đảm tính công khai, minh bạch, được báo cáo đầy đủ theo quy định.
Viện trợ thuộc nguồn thu ngân sách nhà nước là các khoản viện trợ do các cơ quan, tổ chức Việt Nam trực tiếp quản lý và tiếp nhận và được thực hiện theo nguyên tắc quản lý tài chính phải được dự toán (trừ trường hợp vốn viện trợ do Bên cung cấp viện trợ trực tiếp quản lý và thực hiện giải ngân), hạch toán, quyết toán đầy đủ vào ngân sách nhà nước theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước và các văn bản pháp luật liên quan. Việc lập dự toán, quyết toán các khoản viện trợ thuộc nguồn thu ngân sách nhà nước cho lĩnh vực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số thực hiện theo quy định tại Điều 63 Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo và các văn bản hướng dẫn liên quan.
Vốn viện trợ không thuộc nguồn thu ngân sách nhà nước được thực hiện tuân thủ theo các quy định về kế toán, thuế hiện hành; điều lệ hoạt động của Bên tiếp nhận viện trợ và không trái với các quy định của pháp luật Việt Nam.
Sau 06 tháng kể từ ngày khoản viện trợ được phê duyệt, trường hợp xuất hiện các yếu tố không phù hợp hoặc nguyên nhân bất khả kháng về nguồn vốn, thể chế, chính sách hoặc các nguyên nhân khác dẫn đến chưa thực hiện hoặc không thể tiếp tục thực hiện khoản viện trợ, trên cơ sở báo cáo của chủ khoản viện trợ, cơ quan chủ quản ra quyết định dừng tiếp nhận hoặc không tiếp tục thực hiện dự án, phi dự án. Cơ quan chủ quản có trách nhiệm thông báo cho Bên cung cấp viện trợ và các cơ quan liên quan về quyết định dừng tiếp nhận khoản viện trợ.
Cấm sử dụng viện trợ để trốn thuế, tư lợi cá nhân
Nghị định 313/2025/NĐ-CP nêu rõ các hành vi bị cấm trong sử dụng viện trợ gồm:
- Sử dụng viện trợ để phục vụ mục đích rửa tiền, tài trợ khủng bố, trốn thuế, xâm hại đến an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc; xâm hại đạo đức xã hội, thuần phong, mỹ tục và bản sắc văn hóa dân tộc.
- Sử dụng viện trợ để tìm kiếm lợi nhuận phân chia, tư lợi cá nhân, không vì mục đích nhân đạo, phát triển kinh tế xã hội, không vì lợi ích cộng đồng.
- Các hành vi tham nhũng, gây thất thoát, lãng phí, trục lợi trong sử dụng và quản lý vốn viện trợ; sử dụng vốn viện trợ sai mục đích và các hành vi vi phạm pháp luật khác.
Thẩm quyền phê duyệt khoản viện trợ
Nghị định 313/2025/NĐ-CP đã phân cấp, phân quyền trong quy trình thẩm định, phê duyệt khoản viện trợ như sau:
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt các khoản viện trợ có nội dung liên quan đến việc nhập khẩu các hàng hóa nhập khẩu thuộc thẩm quyền quyết định của Thủ tướng Chính phủ theo quy định pháp luật có liên quan.
Người đứng đầu cơ quan chủ quản phê duyệt:
- Các khoản viện trợ trực tiếp cho cơ quan, đơn vị thuộc phạm vi quản lý và các khoản viện trợ khắc phục hậu quả (trừ các khoản viện trợ thuộc thẩm quyền phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam);
- Các khoản viện trợ mà bên tiếp nhận là các tổ chức do cơ quan chủ quản ra quyết định thành lập hoặc phê duyệt điều lệ hoặc cấp Giấy đăng ký hoạt động, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của bên tiếp nhận viện trợ, trừ các tổ chức do Bộ Nội vụ ra quyết định phê duyệt điều lệ;
- Các khoản viện trợ của các đối tượng theo quyết định của Thủ tướng đã được Thủ tướng Chính phủ cho phép tiếp nhận;
- Các khoản viện trợ của các doanh nghiệp xã hội, doanh nghiệp khoa học và công nghệ do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi đăng ký kinh doanh phê duyệt.
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo phê duyệt các khoản viện trợ của các đơn vị sự nghiệp công lập theo Quyết định số 1723/QĐ-TTg ngày 12/8/2025 của Thủ tướng Chính phủ ban hành danh sách các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo, các đơn vị thành viên, đơn vị trực thuộc của các đơn vị sự nghiệp công lập nêu tại Quyết định trên, trừ các khoản viện trợ dành cho Đại học quốc gia Hà Nội, Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
Bộ trưởng Bộ Nội vụ phê duyệt các khoản viện trợ của các hội, quỹ xã hội, quỹ từ thiện hoạt động trên phạm vi toàn quốc do Bộ Nội vụ quyết định phê duyệt điều lệ, trừ các hội do Đảng và Nhà nước giao nhiệm vụ ở trung ương.
Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phê duyệt các khoản cứu trợ nhân đạo không có địa chỉ cụ thể (Bên cung cấp viện trợ không ấn định cứu trợ cho một địa phương cụ thể).
Nghị định 313/2025/NĐ-CP nêu rõ, đối với các khoản viện trợ có nội dung đầu tư công, đầu tư xây dựng, thẩm quyền phê duyệt dự án sử dụng vốn viện trợ thực hiện theo quy định của pháp luật quản lý đầu tư công và đầu tư xây dựng công trình.
Nguyên tắc quản lý tài chính đối với vốn viện trợ
Nghị định 313/2025/NĐ-CP quy định các khoản viện trợ thuộc nguồn thu ngân sách nhà nước do chủ khoản viện trợ tự quản lý, thực hiện phải được giao dự toán, xác nhận (đối với vốn viện trợ bố trí từ nguồn đầu tư công), hạch toán, quyết toán theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước và quản lý tài chính quy định tại Nghị định này. Trường hợp phát sinh mới chưa được tổng hợp trong dự toán được cấp có thẩm quyền phân bổ và giao dự toán, chủ dự án lập dự toán bổ sung trình cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định theo quy định pháp luật về quản lý ngân sách nhà nước.
Các khoản viện trợ thuộc nguồn thu ngân sách nhà nước cho lĩnh vực khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số được tổng hợp vào dự toán cho lĩnh vực khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số theo quy trình, quy định tại Luật Ngân sách nhà nước số 89/2025/QH15 và Điều 63 Luật Khoa học, công nghệ và Đổi mới sáng tạo số 93/2025/QH15.
Đối với khoản viện trợ không hoàn lại thuộc nguồn thu ngân sách nhà nước do Bên cung cấp viện trợ trực tiếp quản lý, thực hiện: Cơ quan chủ quản, chủ dự án chịu trách nhiệm quản lý theo văn kiện dự án, phi dự án đã được phê duyệt; thực hiện theo chức năng, nhiệm vụ của cơ quan chủ quản, chủ dự án quy định tại Nghị định này; tuân thủ các quy định về kế toán, thuế và các quy định pháp luật có liên quan.
Đối với vốn viện trợ không thuộc nguồn thu ngân sách nhà nước, Bên tiếp nhận viện trợ quản lý, sử dụng theo văn kiện dự án, phi dự án đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt; điều lệ tổ chức và hoạt động của Bên tiếp nhận viện trợ và tuân thủ các quy định về kế toán, thuế và các quy định pháp luật có liên quan.
Đối với khoản viện trợ thuộc nguồn thu ngân sách nhà nước cho các doanh nghiệp mà Nhà nước nắm giữ 100% vốn thực hiện, tùy theo tính chất của khoản viện trợ được hạch toán thu ngân sách nhà nước và hạch toán chi ngân sách nhà nước để tăng vốn nhà nước tại doanh nghiệp.
Đối với các khoản viện trợ nhằm mục đích cứu trợ khẩn cấp và khắc phục hậu quả thiên tai: Thực hiện theo quy định của pháp luật về tiếp nhận, quản lý và sử dụng viện trợ quốc tế để cứu trợ khẩn cấp và khắc phục hậu quả thiên tai.

Quy định về giám sát an toàn bức xạ, an toàn hạt nhân và an ninh hạt nhân.
Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 316/2025/NĐ-CP ngày 10/12/2025 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Năng lượng nguyên tử về nhà máy điện hạt nhân, lò phản ứng hạt nhân nghiên cứu.
Nghị định gồm 9 chương, 74 điều quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành của Luật Năng lượng nguyên tử 2025 về yêu cầu an toàn và an ninh nhà máy điện hạt nhân, lò phản ứng hạt nhân nghiên cứu; địa điểm, thiết kế, quyết định đầu tư, xây dựng, vận hành, chấm dứt hoạt động nhà máy điện hạt nhân…
Nghị định này hướng dẫn các biện pháp thi hành Luật Năng lượng nguyên tử 2025 nhằm bảo đảm an toàn bức xạ, an toàn hạt nhân và an ninh hạt nhân trong suốt vòng đời của nhà máy điện hạt nhân và lò phản ứng hạt nhân nghiên cứu.
Nghị định này áp dụng đối với tổ chức, cá nhân trong nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế tiến hành các hoạt động liên quan đến nhà máy điện hạt nhân, lò phản ứng hạt nhân nghiên cứu trên lãnh thổ Việt Nam.
Thiết kế nhà máy điện hạt nhân, lò phản ứng hạt nhân nghiên cứu
Về thiết kế nhà máy điện hạt nhân, lò phản ứng hạt nhân nghiên cứu, Nghị định quy định các yêu cầu chung như sau:
a) Bảo đảm việc thực hiện các chức năng an toàn cơ bản bao gồm: kiểm soát phản ứng hạt nhân dây chuyền; tải nhiệt từ vùng hoạt lò phản ứng và nơi lưu giữ nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng, ngăn ngừa phát tán phóng xạ;
b) Áp dụng phương pháp tiếp cận có hệ thống để xác định các hạng mục quan trọng về an toàn và đặc tính an toàn nội tại, thực hiện hoặc có ảnh hưởng đến chức năng an toàn cơ bản đối với tất cả các trạng thái của nhà máy điện hạt nhân và lò phản ứng hạt nhân nghiên cứu;
c) Bảo đảm khả năng thực hiện chức năng an toàn cơ bản với độ tin cậy cao, bảo đảm việc vận hành ổn định trong toàn bộ tuổi thọ theo thiết kế;
d) Đối với nhà máy điện hạt nhân, phải dựa trên kết quả phân tích an toàn tất định và phân tích an toàn xác suất để ngăn ngừa sự cố và giảm thiểu hậu quả nếu xảy ra;
đ) Đối với lò phản ứng hạt nhân nghiên cứu, phải dựa trên kết quả phân tích an toàn tất định và kết quả phân tích an toàn xác suất (nếu có) theo phương pháp tiếp cận theo cấp độ;
e) Bảo đảm việc kiểm soát phát thải phóng xạ ra môi trường; lượng chất thải phóng xạ phát sinh trực tiếp từ hoạt động của nhà máy điện hạt nhân, lò phản ứng hạt nhân nghiên cứu không vượt quá giới hạn quy định;
g) Tính đến kinh nghiệm thu được từ thiết kế, xây dựng và vận hành các nhà máy điện hạt nhân, lò phản ứng hạt nhân nghiên cứu khác, cũng như kết quả của các chương trình nghiên cứu có liên quan;
h) Tính đến khả năng chấm dứt hoạt động, bao gồm: phương án tháo dỡ, xử lý chất thải phóng xạ và phục hồi môi trường; giảm thiểu lượng chất thải phát xạ sinh ra từ quá trình tháo dỡ;
i) Tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động thanh sát hạt nhân.
Nguyên tắc thiết kế về an toàn bức xạ và an toàn hạt nhân
a) Áp dụng nguyên tắc bảo vệ theo chiều sâu;
b) Kết hợp các tính năng an toàn thụ động và chủ động;
c) Áp dụng tính độc lập, tính dự phòng, tính đa dạng, khả năng tự bảo vệ, khả năng khôi phục hoạt động sau sự cố, hạn chế sai hỏng cùng nguyên nhân;
d) Bảo đảm thuận lợi cho việc hiệu chuẩn, thử nghiệm, bảo trì, sửa chữa, thay thế, kiểm tra, theo dõi khả năng thực hiện chức năng và duy trì tính toàn vẹn của các hạng mục quan trọng về an toàn;
đ) Tính đến các nguy hại bên trong và bên ngoài nhà máy điện hạt nhân, lò phản ứng hạt nhân nghiên cứu có khả năng xảy ra, bao gồm cả khả năng nguy hại do con người trực tiếp hoặc gián tiếp gây ra.
Nguyên tắc thiết kế về an ninh hạt nhân
Nghị định quy định nguyên tắc thiết kế về an ninh hạt nhân, cụ thể:
a) Thiết kế hệ thống bảo vệ thực thể phải tính đến các biện pháp kiểm soát tiếp cận, phát hiện, trì hoãn và ứng phó kịp thời đối với hành vi xâm nhập, phá hoại, đánh cắp vật liệu hạt nhân, bảo đảm áp dụng nguyên tắc bảo vệ theo chiều sâu;
b) Thiết kế hệ thống bảo vệ thực thể phải tính đến các biện pháp bảo vệ hệ thống thông tin, hệ thống điều khiển và thiết bị kỹ thuật số trước nguy cơ tấn công mạng và truy cập trái phép;
c) Thiết kế hệ thống bảo vệ thực thể phải dựa trên đánh giá các mối đe doạ, đồng thời áp dụng phương pháp tiếp cận theo cấp độ và đánh giá rủi ro;
d) Tích hợp việc xây dựng, thực hiện các biện pháp bảo đảm an toàn bức xạ, an toàn hạt nhân, an ninh hạt nhân, bảo đảm các biện pháp độc lập, không gây tác động bất lợi cho nhau.
Trình tự lập, thẩm định, phê duyệt thiết kế xây dựng nhà máy điện hạt nhân theo pháp luật về xây dựng đối với dự án quan trọng quốc gia.
Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ quy định chi tiết về yêu cầu an toàn đối với thiết kế nhà máy điện hạt nhân, lò phản ứng hạt nhân nghiên cứu; yêu cầu đối với hệ thống bảo vệ thực thể.
Nguyên tắc giám sát an toàn bức xạ, an toàn hạt nhân và an ninh hạt nhân
Nghị định quy định nguyên tắc giám sát an toàn bức xạ, an toàn hạt nhân và an ninh hạt nhân cụ thể:
a) Tuân thủ quy định của pháp luật;
b) Bảo đảm tính độc lập, khách quan, minh bạch;
c) Ngăn ngừa, phát hiện sớm và xử lý kịp thời nguy cơ mất an toàn;
d) Lưu giữ kết quả giám sát;
đ) Không gây ảnh hưởng tới hoạt động bình thường của nhà máy điện hạt nhân, lò phản ứng hạt nhân nghiên cứu;
e) Việc giám sát phải áp dụng phương pháp tiếp cận theo cấp độ để xác định mức độ, tần suất, phạm vi và phương thức giám sát phù hợp đối với từng hạng mục, hệ thống, hoạt động theo mức độ rủi ro về an toàn bức xạ, an toàn hạt nhân và an ninh hạt nhân.
Hình thức giám sát bao gồm: trực tiếp tại hiện trường; kiểm tra hồ sơ và tài liệu; giám sát trực tuyến.
Cơ quan an toàn bức xạ và hạt nhân quốc gia có trách nhiệm: thiết lập văn phòng giám sát trong các giai đoạn xây dựng, vận hành thử, vận hành và chấm dứt hoạt động; xây dựng chương trình giám sát chi tiết.
Nghị định này có hiệu lực thi hành từ 01/01/2026.

Phê duyệt bổ sung danh mục các nhiệm vụ triển khai thực hiện Công ước quốc tế về tìm kiếm và cứu nạn hàng hải năm 1979 giai đoạn 2026 – 2030
Phó Thủ tướng Bùi Thanh Sơn ký Quyết định số 2674/QĐ-TTg ngày 10/12/2025 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt bổ sung danh mục các nhiệm vụ triển khai thực hiện Công ước quốc tế về tìm kiếm và cứu nạn hàng hải năm 1979 (Công ước SAR 79) giai đoạn 2026 - 2030.
Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Xây dựng phối hợp với các bộ, ngành, địa phương liên quan rà soát, sửa đổi, bổ sung, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan, đảm bảo phù hợp với hệ thống pháp luật Việt Nam, đáp ứng các tiêu chuẩn của Tổ chức Hàng hải quốc tế (IMO) và tiêu chuẩn, khuyến cáo thực hành của Tổ chức Hàng không dân dụng quốc tế (ICAO); hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra việc thực hiện các quy định về bảo đảm an toàn hàng hải và tìm kiếm, cứu nạn trên biển tại các địa phương; nghiên cứu, xây dựng Đề án kiện toàn lại hoạt động của Trung tâm Phối hợp tìm kiếm cứu nạn hàng hải Việt Nam theo hướng tinh gọn, hiệu quả, tăng cường phân cấp, phân quyền cho các Trung tâm Phối hợp tìm kiếm cứu nạn hàng hải khu vực; tổ chức, tham dự các hội nghị, hội thảo, diễn đàn, diễn tập SAREX, diễn tập với các quốc gia liên quan triển khai các thỏa thuận hợp tác tìm kiếm, cứu nạn đã được ký kết, các cuộc họp của tiểu ban IMO/ICAO liên quan đến lĩnh vực tìm kiếm, cứu nạn và an toàn, an ninh hàng hải, ứng phó sự cố tràn dầu...
Bộ Tài chính phối hợp với một số bộ, ngành, địa phương liên quan xây dựng, hoàn thiện các văn bản quản lý, sử dụng nguồn ngân sách nhà nước chi hoạt động tìm kiếm, cứu nạn trên biển.
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam phối hợp với các bộ, ngành, địa phương liên quan tuyên truyền nâng cao nhận thức về Công ước SAR 79, Công ước SOLAS 74; vùng trách nhiệm tìm kiếm cứu nạn trên biển của Việt Nam; chủ quyền, quyền chủ quyền; phương pháp truyền phát, tiếp nhận, xử lý thông tin tìm kiếm cứu nạn và an toàn hàng hải cho các đối tượng liên quan đến hoạt động trên biển với các hình thức phù hợp.
Bộ Quốc phòng chủ trì nghiên cứu, xây dựng Đề án tổ chức Trung tâm Phối hợp tìm kiếm cứu nạn hàng không, hàng hải quốc gia; xây dựng Đề án Nâng cấp Trạm Tìm kiếm, cứu nạn Bạch Long Vĩ thành Trung tâm Phối hợp Tìm kiếm, cứu nạn Bạch Long Vĩ...
Bộ Nông nghiệp và Môi trường phối hợp với các bộ, ngành, địa phương liên quan nghiên cứu phát triển dịch vụ khắc phục sự cố môi trường biển theo yêu cầu Công ước SAR 79; thường xuyên nắm chắc tình hình thời tiết, kịp thời thông báo, cảnh báo cho tàu thuyền khi có bão, áp thấp nhiệt đới, các hình thái thời tiết nguy hiểm trên biển.
Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp chủ trì nghiên cứu xây dựng các đề tài khoa học cấp quốc gia về tìm kiếm, cứu nạn trên biển.
Thủ tướng Chính phủ giao các Bộ: Đầu tư, mua sắm các loại trang thiết bị, phương tiện hiện đại, đồng bộ, có khả năng thực hiện nhiệm vụ tìm kiếm, cứu nạn xa bờ, dài ngày trên biển và trong điều kiện thời tiết nguy hiểm; đầu tư, xây dựng, nâng cấp trung tâm chỉ huy, điều hành cho lực lượng tìm kiếm cứu nạn, bảo đảm hiện đại, đồng bộ, lưỡng dụng; tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ quản lý, điều hành, nhân viên tìm kiếm, cứu nạn trên biển...

Phê duyệt Đề án đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao ở Nga, Trung Quốc và các nước Đông Âu.
Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Thành Long vừa ký Quyết định số 2672/QĐ-TTg ngày 10/12/2025 phê duyệt Đề án "Đưa công dân Việt Nam đi học tại Liên bang Nga, Trung Quốc, các nước Đông Âu và các nước thuộc Liên Xô cũ giai đoạn 2026 - 2035".
Mục tiêu của Đề án là nhằm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trình độ đại học, thạc sĩ, tiến sĩ và thực tập ngắn hạn ở Liên bang Nga, Trung Quốc, các nước Đông Âu và các nước thuộc Liên Xô cũ; ưu tiên gửi đi đào tạo những ngành các quốc gia này có thế mạnh.
Trong giai đoạn 2026 - 2035, dự kiến mỗi năm cử đi học khoảng 1.500 ứng viên theo các chương trình học bổng Hiệp định và ngoài Hiệp định. Dự kiến số người đi học tại Liên bang Nga: 1.000 ứng viên/năm; tổng số ở các nước còn lại: 500 ứng viên/năm. Số lượng người được cử đi học có thể thay đổi phụ thuộc vào chỉ tiêu học bổng của phía nước ngoài cấp, nhu cầu đào tạo thực tế và khả năng cân đối của ngân sách nhà nước.
Đối tượng đào tạo
Công dân Việt Nam dự tuyển đi học theo tiêu chí quy định của từng nước. Những trường hợp đã đáp ứng các điều kiện nhận học bổng của Chính phủ nước ngoài diện Hiệp định hoặc ngoài Hiệp định sẽ được xem xét cấp bù kinh phí của Chính phủ Việt Nam nếu thuộc các đối tượng sau (trường hợp không đáp ứng điều kiện để nhận học bổng cấp bù của phía Việt Nam sẽ được đi học bằng học bổng do phía nước ngoài cấp):
1. Đào tạo trình độ đại học
a) Đối với các chương trình học bổng có từ 100 chỉ tiêu trở lên
- Học sinh, sinh viên năm thứ nhất đại học tại Việt Nam, có kết quả học tập tốt ở cấp trung học phổ thông thuộc một trong các nhóm đối tượng sau: (i) là người dân tộc thiểu số; (ii) hộ nghèo; (iii) con liệt sĩ; (iv) ở khu vực miền núi hoặc hải đảo; (v) con cán bộ ngoại giao đang công tác tại các cơ quan đại diện Việt Nam ở quốc gia đó (trường hợp là học sinh, sinh viên năm thứ nhất học ở nước ngoài thì có kết quả học tập của cấp học trung học phổ thông đạt từ 8.0 trở lên theo thang điểm 10 hoặc tương đương).
- Học sinh trung học phổ thông, sinh viên năm thứ nhất đại học tại Việt Nam đoạt giải trong các kỳ thi học sinh giỏi cấp tỉnh, thành phố, quốc gia (do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức), quốc tế (do Bộ Giáo dục và Đào tạo cử tham gia), đoạt giải chính thức trong các cuộc thi thuộc lĩnh vực nghệ thuật, thể dục thể thao (được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận). Riêng đối với ứng viên đi học tại Liên bang Nga bao gồm đối tượng đoạt giải Olympic tiếng Nga do Bộ Khoa học và Giáo dục đại học Nga hoặc Trung tâm Khoa học và Văn hóa Nga tại Hà Nội tổ chức; sinh viên ngành ngôn ngữ Nga được chuyển tiếp đi học tiếng Nga 01 năm học.
- Học sinh, sinh viên năm thứ nhất đại học tại Việt Nam, có kết quả học tập tốt ở cấp trung học phổ thông do các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp nhà nước đề cử nhằm phát triển nguồn nhân lực cho bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp nhà nước và nhận trở về công tác sau tốt nghiệp.
- Sinh viên năm thứ nhất đại học của các trường thuộc lực lượng vũ trang (công an, quân đội).
b) Đối với các chương trình học bổng dưới 100 chỉ tiêu
Ngoài các đối tượng tại điểm a) nêu trên có thêm đối tượng học sinh, sinh viên năm thứ nhất đại học tại Việt Nam có kết quả học tập tốt ở cấp trung học phổ thông.
2. Đào tạo trình độ thạc sĩ, tiến sĩ
a) Cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong các cơ quan, doanh nghiệp nhà nước, cơ sở giáo dục.
b) Người tốt nghiệp đại học với kết quả học tập đạt loại giỏi trở lên hoặc người tốt nghiệp thạc sĩ với kết quả học tập đạt từ 8,0 trở lên theo thang điểm 10 hoặc tương đương được chuyển tiếp đi học trình độ cao hơn.
c) Đối tượng do các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp nhà nước đề cử nhằm phát triển nguồn nhân lực cho bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp nhà nước và nhận trở về công tác sau tốt nghiệp.
3. Thực tập ngắn hạn
Cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong các cơ quan, doanh nghiệp nhà nước, cơ sở giáo dục.
Ngành học, phương thức đào tạo
Về ngành học, Đề án đào tạo nhân lực thuộc tất cả các lĩnh vực, ngành nghề Việt Nam có nhu cầu, trong đó ưu tiên cử đi các ngành thuộc lĩnh vực quốc phòng, an ninh, công nghệ cao, trí tuệ nhân tạo, công nghệ điện toán đám mây, lượng tử, blockchain, công nghệ năng lượng, vật liệu tiên tiến, công nghệ đất hiếm, đại dương, lòng đất, công nghệ hàng không, vũ trụ, ngành công nghiệp bán dẫn, năng lượng, công nghệ hạt nhân, đường sắt, công nghệ sinh học, Y - Dược, pháp luật, … quy định tại các đề án, chương trình do cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Phương thức đào tạo: toàn thời gian ở nước ngoài tại các cơ sở đào tạo có uy tín của Liên bang Nga, Trung Quốc, các nước Đông Âu và các nước thuộc Liên Xô cũ.
Kinh phí và thời gian thực hiện
Quyết định quy định kinh phí thực hiện Đề án gồm:
Kinh phí hỗ trợ của các nước dành cho đào tạo công dân Việt Nam theo diện Hiệp định và ngoài Hiệp định.
Kinh phí thực hiện Đề án từ ngân sách nhà nước Việt Nam bao gồm chi cho công tác đào tạo công dân Việt Nam ở nước ngoài và chi cho công tác quản lý Đề án theo đúng quy định của pháp luật.
Kinh phí xã hội hóa để hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực ở nước ngoài (nguồn tài chính của các cơ sở giáo dục đại học; nguồn tài trợ, hỗ trợ của các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước và các nguồn huy động hợp pháp khác).
Việc quản lý, sử dụng kinh phí để triển khai Đề án thực hiện theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước và các quy định pháp luật khác có liên quan.
Thời gian thực hiện việc tuyển sinh đi học nước ngoài theo Đề án này được thực hiện từ năm 2026 đến năm 2035.
Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký ban hành (10/12/2025); bãi bỏ các chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Công văn số 2792/VPCP-QHQT ngày 21/9/2021 của Văn phòng Chính phủ về quy định tuyển chọn ứng viên đối với các nước Liên bang Nga, Trung Quốc, các nước Đông Âu và các nước thuộc Liên Xô cũ diện Hiệp định.

Tân Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội Vũ Đại Thắng (người cầm hoa).
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính ký các Quyết định phê chuẩn, miễn nhiệm kết quả bầu chức vụ Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội nhiệm kỳ 2021-2026.
Cụ thể, tại Quyết định số 2669/QĐ-TTg ngày 09/12/2025, Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn kết quả bầu chức vụ Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội nhiệm kỳ 2021-2026 đối với ông Vũ Đại Thắng, Phó Bí thư Thành ủy Hà Nội nhiệm kỳ 2025-2030.
Đồng thời, tại Quyết định số 2667/QĐ-TTg ngày 09/12/2025, Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn kết quả miễn nhiệm chức vụ Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội nhiệm kỳ 2021-2026 đối với ông Nguyễn Đức Trung./.