Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ

Chính phủ thông qua nội dung sửa đổi Nghị quyết 136/2024/QH15 về tổ chức chính quyền đô thị và cơ chế đặc thù cho Đà Nẵng.
Chính phủ ban hành Nghị quyết số 375/NQ-CP ngày 20/11/2025 về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số 136/2024/QH15 ngày 26/6/2024 của Quốc hội về tổ chức chính quyền đô thị và thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển Thành phố Đà Nẵng.
Cụ thể, Chính phủ quyết nghị thông qua: (i) Nội dung dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số 136/2024/QH15 ngày 26/6/2024 của Quốc hội về tổ chức chính quyền đô thị và thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển Thành phố Đà Nẵng tại Tờ trình số 843/TTr-BTC ngày 17/11/2025 và Báo cáo số 660/BC-BTC ngày 20/11/2025 của Bộ Tài chính cùng hồ sơ liên quan kèm theo; (ii) Nội dung dự thảo Tờ trình của Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Quốc hội về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số 136/2024/QH15 ngày 26/6/2024 của Quốc hội về tổ chức chính quyền đô thị và thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển Thành phố Đà Nẵng (sau khi đã hoàn thiện, bảo đảm thống nhất với nội dung dự thảo Nghị quyết).
Giao Bộ trưởng Bộ Tài chính thừa ủy quyền Thủ tướng Chính phủ, thay mặt Chính phủ ký Tờ trình của Chính phủ về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số 136/2024/QH15 ngày 26/6/2024 của Quốc hội về tổ chức chính quyền đô thị và thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển Thành phố Đà Nẵng, trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Quốc hội xem xét, quyết định việc áp dụng trình tự, thủ tục rút gọn trong xây dựng, ban hành văn bản, bổ sung vào chương trình Kỳ họp và xem xét, thông qua tại Kỳ họp thứ 10.
Căn cứ ý kiến của cơ quan có thẩm quyền của Đảng về mở rộng trường hợp Nhà nước thu hồi đất so với quy định tại Điều 79 Luật Đất đai và về các nội dung khác trong dự thảo Nghị quyết (nếu có) để hoàn thiện hồ sơ dự thảo Nghị quyết và báo cáo, giải trình với Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội theo quy định.

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Cảnh sát môi trường nhằm nhằm nâng cao công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm môi trường.
Chính phủ ban hành Nghị quyết số 377/NQ-CP ngày 21/11/2025 về dự án Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Cảnh sát môi trường.
Cụ thể, Chính phủ cơ bản thống nhất với dự án Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Cảnh sát môi trường do Bộ Công an trình.
Chính phủ giao Bộ Công an chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan ngang bộ và các cơ quan có liên quan nghiên cứu, tiếp thu tối đa ý kiến Thành viên Chính phủ.
Bộ Công an chịu trách nhiệm toàn diện về các nội dung tiếp thu, giải trình ý kiến Thành viên Chính phủ, khẩn trương hoàn thiện hồ sơ dự án Pháp lệnh theo đúng quy định, bảo đảm một số yêu cầu sau:
Quán triệt và thể chế hóa đầy đủ các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về việc sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy nhà nước. Bảo đảm phù hợp với Hiến pháp và tính thống nhất trong hệ thống pháp luật, các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan mới được ban hành; phù hợp với quy định của các điều ước quốc tế liên quan mà Việt Nam là thành viên. Bảo đảm tính khả thi của các quy định, đáp ứng yêu cầu hội nhập của Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Rà soát kỹ nội dung dự thảo Pháp lệnh, bảo đảm các nội dung được sửa đổi phù hợp, thống nhất với các quy định của pháp luật về tổ chức bộ máy của Công an nhân dân, bám sát thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm về môi trường nhằm duy trì tính ổn định của các quy định; cắt giảm tối đa thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi, thông thoáng, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm về môi trường. Tăng cường kiểm soát quyền lực, phòng chống tham nhũng, tiêu cực, lợi ích nhóm, cục bộ trong công tác xây dựng pháp luật.
Tiếp tục phối hợp với các Bộ, ngành, cơ quan liên quan và tham khảo ý kiến, kinh nghiệm các chuyên gia, người làm thực tiễn có liên quan, hoàn thiện hồ sơ dự án Pháp lệnh bảo đảm rõ ràng, minh bạch, khả thi, thống nhất khi triển khai thực hiện.
Chính phủ giao Bộ trưởng Bộ Công an thừa ủy quyền Thủ tướng Chính phủ, thay mặt Chính phủ ký Tờ trình của Chính phủ về dự án Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Cảnh sát môi trường, trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội, bảo đảm thời hạn theo quy định.
Chính phủ phân công Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Nguyễn Hòa Bình chỉ đạo Bộ Công an và các bộ, cơ quan liên quan trong quá trình chỉnh lý, hoàn thiện dự án Pháp lệnh này.

Việc cưỡng chế chỉ được thực hiện khi có quyết định cưỡng chế bằng văn bản.
Chính phủ ban hành Nghị định số 296/2025/NĐ-CP quy định về cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính.
Nghị định này quy định về nguyên tắc, trình tự, thủ tục áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, quyết định tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, quyết định áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả do vi phạm hành chính gây ra trong trường hợp không ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính, hoàn trả kinh phí cho cơ quan đã thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả trong trường hợp khẩn cấp cần khắc phục ngay hậu quả vi phạm (cưỡng chế), chi phí cưỡng chế, trách nhiệm thi hành và bảo đảm thi hành quyết định cưỡng chế.
Việc cưỡng chế chỉ được thực hiện khi có quyết định cưỡng chế bằng văn bản
Nghị định quy định cụ thể nguyên tắc áp dụng các biện pháp cưỡng chế. Theo đó, việc cưỡng chế chỉ được thực hiện khi có quyết định cưỡng chế bằng văn bản của người có thẩm quyền quy định tại Điều 87 Luật Xử lý vi phạm hành chính và Nghị định quy định chi tiết Luật Xử lý vi phạm hành chính về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính và các Nghị định quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước. Người có thẩm quyền ra quyết định cưỡng chế có trách nhiệm ban hành quyết định cưỡng chế trên cơ sở theo dõi, đôn đốc hoặc đề xuất của người có thẩm quyền xử phạt.
Người có thẩm quyền ra quyết định cưỡng chế quyết định áp dụng một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế quy định tại khoản 2 Điều 86 Luật Xử lý vi phạm hành chính nếu việc áp dụng một biện pháp cưỡng chế không đủ để bảo đảm thi hành quyết định cưỡng chế. Việc quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế cụ thể phải căn cứ vào nội dung, tính chất, mức độ, điều kiện thi hành quyết định cưỡng chế và tình hình thực tế ở địa phương.
Đồng thời, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức bị áp dụng biện pháp cưỡng chế và cá nhân, tổ chức khác có liên quan trong cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, quyết định áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả.
Gửi quyết định cưỡng chế đến cá nhân, tổ chức bị áp dụng biện pháp cưỡng chế, tổ chức, cá nhân có liên quan
Nghị định quy định trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định cưỡng chế, người ra quyết định cưỡng chế phải gửi quyết định cưỡng chế cho cá nhân, tổ chức bị áp dụng biện pháp cưỡng chế, cơ quan, tổ chức thực hiện việc cưỡng chế và cá nhân, tổ chức có liên quan.
Trường hợp cưỡng chế bằng biện pháp quy định tại điểm b, c và d khoản 2 Điều 86 Luật Xử lý vi phạm hành chính thì quyết định cưỡng chế phải được gửi đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi tổ chức cưỡng chế trước khi thi hành để phối hợp thực hiện.
Quyết định cưỡng chế được giao trực tiếp, gửi qua bưu điện bằng hình thức gửi bưu phẩm bảo đảm hoặc hình thức khác theo quy định tại Điều 70 Luật Xử lý vi phạm hành chính.
Trách nhiệm tổ chức thi hành quyết định cưỡng chế
Người ra quyết định cưỡng chế có trách nhiệm tổ chức thực hiện việc cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt của mình và của cấp dưới.
Đối với quyết định cưỡng chế của Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân ra quyết định cưỡng chế căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân, tổ chức hành chính khác ở địa phương, cơ quan được tổ chức theo ngành dọc, địa bàn quản lý của Ủy ban nhân dân cấp dưới hoặc căn cứ lĩnh vực quản lý nhà nước ở địa phương để phân công cơ quan chủ trì tổ chức thi hành quyết định cưỡng chế. Việc phân công cơ quan chủ trì phải trên nguyên tắc vụ việc thuộc lĩnh vực chuyên môn, địa bàn quản lý của cơ quan nào thì giao cơ quan đó chủ trì hoặc để đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực địa bàn; trường hợp vụ việc liên quan đến nhiều cơ quan thì căn cứ vào từng trường hợp cụ thể để quyết định giao cho một cơ quan (có nội dung chủ yếu thuộc lĩnh vực chuyên môn hoặc địa bàn quản lý) chủ trì tổ chức thi hành quyết định cưỡng chế.
Đối với những vụ việc có tính chất phức tạp, Chủ tịch Ủy ban nhân dân ra quyết định và tổ chức thi hành cưỡng chế trên cơ sở đề xuất của người có thẩm quyền ra quyết định xử phạt của cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân.
Trường hợp cần thiết phối hợp, huy động nhiều cơ quan, đơn vị, lực lượng chức năng có liên quan, cơ quan chủ trì tổ chức thi hành quyết định cưỡng chế có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan có liên quan xây dựng kế hoạch cưỡng chế trình người ra quyết định cưỡng chế phê duyệt.
Các tổ chức, cá nhân liên quan có nghĩa vụ phối hợp với cơ quan của người có thẩm quyền ra quyết định cưỡng chế hoặc cơ quan được giao chủ trì tổ chức cưỡng chế triển khai các biện pháp nhằm thi hành quyết định cưỡng chế. Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc phối hợp phải được quy định cụ thể tại kế hoạch cưỡng chế.
Nguồn tiền khấu trừ và tài sản kê biên đối với tổ chức, hộ kinh doanh, hộ gia đình, tổ hợp tác, cộng đồng dân cư bị áp dụng biện pháp cưỡng chế
Nghị định quy định đối với tổ chức là cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị sự nghiệp công lập không có thu được bảo đảm kinh phí hoạt động từ ngân sách nhà nước bị áp dụng biện pháp cưỡng chế khấu trừ tiền và trả chi phí cho hoạt động cưỡng chế thì phải tự bảo đảm nguồn tiền để thi hành quyết định cưỡng chế, không được sử dụng tiền ngân sách nhà nước hoặc tiền có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước.
Đối với tổ chức quy định ở trên có thu hoặc được tổ chức các hoạt động có thu theo quy định của pháp luật, khi bị khấu trừ tiền, kê biên tài sản và trả chi phí cho hoạt động cưỡng chế thì lấy từ nguồn thu và tài sản do các hoạt động này mang lại.
Đối với tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức phi chính phủ, các quỹ xã hội, quỹ từ thiện thì khấu trừ tiền, kê biên tài sản, trả chi phí cho hoạt động cưỡng chế từ tiền, tài sản của tổ chức, quỹ đó.
Đối với doanh nghiệp, đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp, liên hiệp hợp tác xã và hợp tác xã thì khấu trừ tiền, kê biên tài sản, trả chi phí cho hoạt động cưỡng chế từ tiền, tài sản hoặc thu nhập bằng tiền, tài sản của doanh nghiệp, đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp, liên hiệp hợp tác xã, hợp tác xã đó.
Đối với hộ kinh doanh, hộ gia đình, tổ hợp tác thì khấu trừ tiền, kê biên tài sản, trả chi phí cho hoạt động cưỡng chế từ tiền, tài sản chung của hộ kinh doanh, hộ gia đình, tổ hợp tác; trường hợp tài sản chung không đủ để thi hành quyết định cưỡng chế thì khấu trừ tiền, kê biên tài sản của các thành viên trong hộ kinh doanh, hộ gia đình, tổ hợp tác, trừ trường hợp hợp đồng hợp tác hoặc pháp luật có liên quan quy định khác.
Đối với cộng đồng dân cư thì khấu trừ tiền, kê biên tài sản, trả chi phí cho hoạt động cưỡng chế từ tiền, tài sản chung của cộng đồng dân cư.
Bảo đảm trật tự, an toàn trong quá trình thi hành quyết định cưỡng chế
Lực lượng Công an nhân dân có trách nhiệm bảo đảm trật tự, an toàn trong quá trình thi hành quyết định cưỡng chế khi được phân công hoặc yêu cầu.
Trường hợp có yêu cầu lực lượng Công an nhân dân tham gia bảo đảm trật tự, an toàn trong quá trình thi hành quyết định cưỡng chế thì cơ quan chủ trì thi hành quyết định cưỡng chế phải gửi văn bản yêu cầu đến cơ quan Công an cùng cấp ít nhất 05 ngày làm việc trước khi thực hiện cưỡng chế để bố trí lực lượng.
Khi tham gia cưỡng chế, lực lượng Công an nhân dân có trách nhiệm bảo đảm trật tự, an toàn, ngăn chặn, xử lý các hành vi gây rối, chống người thi hành công vụ tại khu vực thi hành quyết định cưỡng chế.
Chủ tịch Ủy ban nhân dân có trách nhiệm phân công cơ quan Công an cùng cấp trong quá trình tổ chức thi hành cưỡng chế đối với vụ việc có tính chất phức tạp.
Tạm đình chỉ, đình chỉ cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, quyết định áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả
Nghị định quy định việc cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, quyết định áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả bị tạm đình chỉ thực hiện khi có quyết định tạm đình chỉ việc thi hành quyết định cưỡng chế của người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật tố tụng hành chính hoặc người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại theo quy định của pháp luật về khiếu nại.
Người có thẩm quyền ra quyết định cưỡng chế phải ra quyết định đình chỉ cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong trường hợp sau đây:
- Cá nhân bị áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt tiền hoặc chi trả chi phí khắc phục hậu quả chết, mất tích không để lại di sản hoặc theo quy định của pháp luật nghĩa vụ của người đó theo bản án, quyết định không được chuyển giao cho người thừa kế;
- Quyết định xử phạt vi phạm hành chính, quyết định áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả, quyết định tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị hủy bỏ, sửa đổi mà cá nhân, tổ chức bị xử phạt không phải thi hành quyết định đó nữa;
- Tổ chức bị áp dụng biện pháp cưỡng chế đã giải thể, phá sản không còn tài sản mà theo quy định của pháp luật nghĩa vụ của họ không được chuyển giao cho tổ chức khác;
- Có quyết định miễn tiền phạt hoặc giảm tiền phạt và cá nhân, tổ chức bị xử phạt đã thi hành xong quyết định xử phạt vi phạm hành chính đó;
- Trường hợp hành vi vi phạm bị xử phạt vi phạm hành chính được phát hiện có dấu hiệu tội phạm mà chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.
Thời hạn ra quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ là 05 ngày làm việc, kể từ ngày có căn cứ tạm đình chỉ, đình chỉ theo quy định. Việc gửi quyết định tạm đình chỉ thực hiện theo quy định giống như gửi quyết định cưỡng chế.
Thời hạn tạm đình chỉ phù hợp với thời hạn giải quyết khiếu nại theo quy định của pháp luật về khiếu nại.
Nghị định số 296/2025/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 1/1/2026 và thay thế Nghị định số 166/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ quy định về cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính.
Đối với quyết định cưỡng chế đã được ban hành hoặc đã được thi hành xong trước thời điểm ngày 1/1/2026, mà cá nhân, tổ chức bị cưỡng chế còn khiếu nại, thì áp dụng quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính, Nghị định số 166/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013.

Việt Nam tăng cường hội nhập quốc tế trong lĩnh vực tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng.
Phó Thủ tướng Nguyễn Chí Dũng ký Quyết định số 2542/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt một số nhiệm vụ, giải pháp tăng cường hội nhập quốc tế trong lĩnh vực tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng giai đoạn đến năm 2030.
Đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong lĩnh vực tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng theo hướng chủ động, toàn diện, thực chất, linh hoạt
Mục tiêu chung nhằm thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong lĩnh vực tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng (TCĐLCL) theo hướng chủ động, toàn diện, thực chất, linh hoạt và phù hợp với năng lực quốc gia; coi hội nhập quốc tế về TCĐLCL là một cấu phần quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, trong đó lấy doanh nghiệp làm trung tâm, Hạ tầng chất lượng quốc gia (NQI-National Quality Infrastructure) làm nền tảng, chuyển đổi số là động lực, góp phần rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển.
Phát triển Hạ tầng chất lượng quốc gia (NQI-National Quality Infrastructure) theo hướng đồng bộ, hiện đại, phù hợp thông lệ quốc tế, gắn với mục tiêu tăng trưởng xanh, phát triển bền vững, hỗ trợ và tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong nước nâng cao năng lực cạnh tranh tại các thị trường quốc tế, góp phần gia tăng giá trị xuất khẩu và uy tín thương hiệu Việt Nam; cải thiện thứ hạng NQI của Việt Nam trên các bảng xếp hạng khu vực và toàn cầu.
Việt Nam phấn đấu thuộc nhóm 45 quốc gia dẫn đầu thế giới trong xếp hạng Chỉ số hạ tầng chất lượng toàn cầu
Mục tiêu phấn đấu đến năm 2030, xây dựng, công bố và áp dụng ít nhất 100 tiêu chuẩn quốc gia (TCVN) mới phục vụ các nhóm công nghệ chiến lược, hài hòa với tiêu chuẩn quốc tế. Tỷ lệ tiêu chuẩn quốc gia (TCVN) hài hòa với tiêu chuẩn khu vực, tiêu chuẩn quốc tế đạt tối thiểu 75%.
Duy trì hệ thống chuẩn đo lường quốc gia với tối thiểu 60 chuẩn liên kết tới hệ đơn vị đo quốc tế (SI); mở rộng danh mục năng lực đo và hiệu chuẩn (CMC) được công nhận trong khuôn khổ thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau (CIPM-MRA) phục vụ xuất khẩu, sản phẩm công nghệ chiến lược và hội nhập kỹ thuật.
Tối thiểu 80% kết quả đánh giá sự phù hợp được quốc tế thừa nhận thông qua các thỏa thuận công nhận đa phương (MLA) và thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau (MRA); thúc đẩy ký kết các MRA song phương trong lĩnh vực thử nghiệm, chứng nhận hoặc đo lường với các thị trường xuất khẩu trọng điểm, nhằm giảm rào cản kỹ thuật trong thương mại và thúc đẩy xuất khẩu.
Tất cả (100%) các tổ chức đánh giá sự phù hợp trọng điểm (công lập và ngoài công lập) được công nhận theo tiêu chuẩn ISO/IEC và các hướng dẫn của IAF/ILAC/APAC, có đủ năng lực phục vụ đánh giá sự phù hợp, hỗ trợ xuất khẩu sang các thị trường trọng điểm của Việt Nam và đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước.
NQI gắn với đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số và mô hình quản lý tiên tiến, thuộc nhóm 45 quốc gia dẫn đầu thế giới trong xếp hạng Chỉ số hạ tầng chất lượng toàn cầu (Global Infrastructure Index - GII).
Việt Nam đảm nhiệm vai trò chủ trì, đồng chủ trì, thư ký từ 01 đến 02 Ủy ban kỹ thuật hoặc nhóm công tác của các tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế trong các lĩnh vực ưu tiên mà Việt Nam có lợi thế; tham gia với tư cách là thành viên chính thức của Văn phòng Cân Đo Quốc tế (BIPM); tham gia đầy đủ 12/12 Ban kỹ thuật của Chương trình Đo lường khu vực Châu Á Thái Bình Dương (APMP), tham gia với tư cách là Trưởng ban Ban kỹ thuật của ít nhất 01 Ban kỹ thuật; tham gia ít nhất 03/18 Ban kỹ thuật của Tổ chức Đo lường Pháp định Quốc tế (OIML); tham gia ít nhất 04/6 nhóm công tác của Diễn đàn Đo lường Châu Á Thái Bình Dương (APLMF).
Đào tạo và thu hút được tối thiểu 300 chuyên gia lĩnh vực TCĐLCL tham gia các hoạt động TCĐLCL trong khuôn khổ các tổ chức quốc tế.
9 nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm
Để đạt được các mục tiêu trên, Thủ tướng Chính phủ đưa ra 9 nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm mà các bộ ngành, địa phương cần thực hiện gồm: 1- Hoàn thiện thể chế, pháp luật về TCĐLCL phù hợp hội nhập quốc tế; 2- Tăng cường năng lực, chủ động tham gia và đề xuất tiêu chuẩn quốc tế; 3- Hoàn thiện hạ tầng đo lường quốc gia đạt chuẩn quốc tế; 4- Nâng cao năng lực các tổ chức công nhận; 5- Nâng cao năng lực các tổ chức đánh giá sự phù hợp; 6- Đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao về TCĐLCL; 7- Tăng cường chuyển đổi số trong lĩnh vực TCĐLCL; 8- Nâng cao nhận thức và truyền thông hội nhập quốc tế về TCĐLCL; 9- Đầu tư phát triển hạ tầng chất lượng quốc gia (NQI).
Để tăng cường năng lực, chủ động tham gia và đề xuất tiêu chuẩn quốc tế, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu cần phải đẩy mạnh hài hòa TCVN với tiêu chuẩn quốc tế và tiêu chuẩn khu vực trong các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế, đặc biệt chú trọng phát triển các tiêu chuẩn của công nghệ chiến lược và sản phẩm công nghệ chiến lược. Hợp tác với chuyên gia quốc tế để xây dựng và đề xuất các tổ chức quốc tế có uy tín ban hành từ 2 đến 3 tiêu chuẩn quốc tế mới do Việt Nam chủ trì; chủ động, tích cực tham gia, nâng cao vai trò của Việt Nam trong các tổ chức quốc tế và khu vực về TCĐLCL mà Việt Nam là thành viên, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ, đóng góp chuyên môn tại các hội nghị, diễn đàn kỹ thuật quốc tế; hỗ trợ tổ chức, chuyên gia Việt Nam trong việc chủ trì nghiên cứu, đề xuất dự án xây dựng tiêu chuẩn quốc tế...
Phát triển hạ tầng kỹ thuật đo lường đồng bộ, thống nhất từ trung ương đến địa phương
Nhiệm vụ để hoàn thiện hạ tầng đo lường quốc gia đạt chuẩn quốc tế là phát triển hạ tầng kỹ thuật đo lường đồng bộ, thống nhất từ trung ương đến địa phương và các ngành, lĩnh vực; nâng cấp, đầu tư mới hệ thống chuẩn đo lường quốc gia theo hướng tiên tiến, hiện đại ngang tầm các nước trong khu vực. Đầu tư và đẩy mạnh hỗ trợ kỹ thuật nhằm nâng cao năng lực đo và hiệu chuẩn (CMC) của các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia về đo lường, bảo đảm được quốc tế thừa nhận; mở rộng hợp tác song phương với các viện đo lường quốc gia của các nước phát triển và các tổ chức quốc tế về đo lường công nghiệp để nghiên cứu, xây dựng phương pháp đo, phép đo, chuẩn đo lường và chất chuẩn...
Tăng cường chuyển đổi số trong lĩnh vực TCĐLCL
Vận hành hiệu quả các nền tảng số dùng chung trong lĩnh vực TCĐLCL, kết nối, chia sẻ dữ liệu với hệ thống thông tin của các tổ chức quốc tế và quốc gia đối tác, phục vụ thu thập, phân tích dữ liệu và hội nhập quốc tế; phát triển nền tảng số hỗ trợ doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong ứng dụng mã số mã vạch, truy xuất nguồn gốc, nhãn điện tử, hộ chiếu số sản phẩm, góp phần nâng cao chất lượng, năng lực cạnh tranh và mở rộng thị trường quốc tế cho sản phẩm Việt Nam.
Đẩy mạnh việc cung cấp trực tuyến thông tin về chính sách, pháp luật và hoạt động của lĩnh vực TCĐLCL, tạo thuận lợi cho tổ chức, doanh nghiệp trong nước và quốc tế tra cứu, đánh giá, xếp hạng các chỉ số liên quan đến Việt Nam.
Việt Nam ưu tiên bố trí đủ nguồn lực ngân sách nhà nước cho hoạt động TCĐLCL; thiết lập cơ chế hỗ trợ tài chính, kỹ thuật và tư vấn theo mô hình hợp tác công - tư (PPP) nhằm nâng cao năng lực kỹ thuật và thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa mang thương hiệu Việt Nam...

Quy chế và Kế hoạch hoạt động của Ban Chỉ đạo nhà nước về du lịch
Phó Thủ tướng Mai Văn Chính - Trưởng Ban Chỉ đạo nhà nước về du lịch vừa ký các Quyết định ban hành Quy chế hoạt động và Kế hoạch tổ chức hoạt động của Ban Chỉ đạo năm 2025 - 2026.
Nguyên tắc làm việc của Ban Chỉ đạo
Cụ thể, Theo Quy chế tại Quyết định số 170/QĐ-BCĐNNDL ngày 21/11/2025, Ban Chỉ đạo nhà nước về du lịch (Ban Chỉ đạo) làm việc theo nguyên tắc tập trung dân chủ, đề cao trách nhiệm người đứng đầu và phát huy trí tuệ tập thể của các thành viên; bảo đảm yêu cầu phối hợp chặt chẽ, thống nhất trong chỉ đạo, điều hành và trao đổi thông tin giải quyết công việc theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan thành viên được pháp luật quy định.
Các thành viên Ban Chỉ đạo có trách nhiệm tham gia đầy đủ các hoạt động của Ban Chỉ đạo; triển khai, thực hiện nhiệm vụ được Ban Chỉ đạo phân công và chịu trách nhiệm trước Trưởng Ban Chỉ đạo về kết quả triển khai thực hiện; giải quyết công việc theo đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật và quy định của Quy chế này.
Căn cứ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và thành viên Ban Chỉ đạo được quy định tại Quyết định số 1532/QĐ-TTg ngày 15 tháng 7 năm 2025 của Thủ tướng Chính phủ về việc kiện toàn Ban Chỉ đạo Nhà nước về Du lịch.
Ban Chỉ đạo làm việc theo các hình thức như tổ chức phiên họp định kỳ, cuộc họp đột xuất, hội nghị (trực tiếp hoặc trực tuyến), tổ chức các đoàn làm việc tại bộ, ngành, địa phương và cho ý kiến bằng văn bản.
Trách nhiệm của Ban Chỉ đạo
Ban Chỉ đạo có trách nhiệm giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo việc phối hợp hoạt động của các bộ, ngành và địa phương liên quan trong việc xây dựng và tổ chức triển khai thực hiện chiến lược, chương trình, kế hoạch quốc gia về phát triển du lịch trong từng giai đoạn, thời kỳ phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; nghiên cứu, đề xuất Thủ tướng Chính phủ các giải pháp cấp bách, cơ chế, chính sách linh hoạt phục vụ phát triển du lịch.
Đồng thời, Ban Chỉ đạo giúp Thủ tướng Chính phủ giải quyết những vướng mắc liên quan đến chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển du lịch vượt quá thẩm quyền giải quyết của các bộ, ngành và địa phương; chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc các bộ, ngành và địa phương trong việc xây dựng, triển khai các kế hoạch, chương trình cụ thể về phát triển du lịch phù hợp với kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế - xã hội của cả nước và chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương và các cơ quan thông tin đại chúng thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương, pháp luật của Nhà nước về phát triển du lịch...
Kế hoạch hoạt động của Ban Chỉ đạo năm 2025 - 2026
Theo Kế hoạch tổ chức hoạt động của Ban Chỉ đạo năm 2025 - 2026 được ban hành tại Quyết định số 169/QĐ-BCĐNNDL, trong năm 2025 - 2026, Ban Chỉ đạo sẽ chỉ đạo kiểm tra, đôn đốc các bộ, cơ quan, địa phương trong việc xây dựng triển khai các kế hoạch, chương trình, giải pháp về phát triển du lịch; nghiên cứu, xây dựng tài liệu thông tin du lịch phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành của Ban Chỉ đạo; tham mưu tổ chức phiên họp định kỳ và các phiên họp đột xuất của Ban Chỉ đạo...

Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Nguyễn Hòa Bình ký các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn kết quả bầu, miễn nhiệm chức vụ Chủ tịch UBND 5 tỉnh: Thái Nguyên, Bắc Ninh, Hưng Yên, Lai Châu, Đồng Nai và Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh nhiệm kỳ 2021-2026.
Cụ thể, đối với tỉnh Thái Nguyên, tại Quyết định số 2555/QĐ-TTg ngày 21/11/2025, Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn kết quả bầu chức vụ Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên nhiệm kỳ 2021-2026 đối với ông Vương Quốc Tuấn, Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Bí thư Tỉnh ủy Thái Nguyên nhiệm kỳ 2025-2030.
Đồng thời, tại Quyết định số 2551/QĐ-TTg ngày 21/11/2025, Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn việc miễn nhiệm chức vụ Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên nhiệm kỳ 2021-2026 đối với ông Phạm Hoàng Sơn.
Đối với tỉnh Bắc Ninh, tại Quyết định số 2556/QĐ-TTg ngày 21/11/2025, Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn kết quả bầu chức vụ Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh nhiệm kỳ 2021-2026 đối với ông Phạm Hoàng Sơn, Phó Bí thư Tỉnh ủy Bắc Ninh nhiệm kỳ 2025-2030.
Đồng thời, tại Quyết định số 2547/QĐ-TTg ngày 21/11/2025, Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn kết quả miễn nhiệm chức vụ Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh nhiệm kỳ 2021-2026 đối với ông Vương Quốc Tuấn.
Đối với tỉnh Hưng Yên, tại Quyết định số 2546/QĐ-TTg ngày 20/11/2025, Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn kết quả bầu chức vụ Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Hưng Yên nhiệm kỳ 2021-2026 đối với ông Phạm Quang Ngọc, Phó Bí thư Tỉnh ủy Hưng Yên nhiệm kỳ 2025-2030.
Tại Quyết định số 2545/QĐ-TTg ngày 20/11/2025, Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn kết quả miễn nhiệm chức vụ Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Hưng Yên nhiệm kỳ 2021-2026 đối với ông Nguyễn Khắc Thận để nhận nhiệm vụ mới.
Đối với tỉnh Lai Châu, tại Quyết định số 2568/QĐ-TTg ngày 21/11/2025, Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn kết quả bầu chức vụ Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Lai Châu nhiệm kỳ 2021-2026 đối với ông Hà Quang Trung, Phó Bí thư Tỉnh ủy Lai Châu nhiệm kỳ 2025-2030.
Đồng thời, tại Quyết định số 2548/QĐ-TTg ngày 21/11/2025, Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn kết quả miễn nhiệm chức vụ Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Lai Châu nhiệm kỳ 2021-2026 đối với ông Lê Văn Lương.
Đối với tỉnh Đồng Nai, tại Quyết định số 2559/QĐ-TTg ngày 21/11/2025, Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn kết quả bầu chức vụ Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai nhiệm kỳ 2021-2026 đối với ông Nguyễn Văn Út, Phó Bí thư Tỉnh ủy Đồng Nai nhiệm kỳ 2025-2030.
Đồng thời, tại Quyết định số 2550/QĐ-TTg ngày 21/11/2025, Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn kết quả miễn nhiệm chức vụ Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai nhiệm kỳ 2021-2026 đối với ông Võ Tấn Đức.
Đối với Thành phố Hồ Chí Minh, tại Quyết định số 2557/QĐ-TTg ngày 21/11/2025, Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn kết quả bầu chức vụ Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh nhiệm kỳ 2021-2026 đối với ông Hoàng Nguyên Dinh, Ủy viên Ban Thường vụ Thành ủy, Phó Trưởng Ban Tuyên giáo và Dân vận Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh.
Tại Quyết định số 2558/QĐ-TTg ngày 21/11/2025, Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn kết quả bầu chức vụ Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh nhiệm kỳ 2021-2026 đối với ông Nguyễn Công Vinh, Thành ủy viên, Giám đốc Sở Tài chính Thành phố Hồ Chí Minh.
Tại Quyết định số 2560/QĐ-TTg ngày 21/11/2025, Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn kết quả bầu chức vụ Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh nhiệm kỳ 2021-2026 đối với ông Trần Văn Bảy, Thành ủy viên, Chánh Thanh tra Thành phố Hồ Chí Minh.
Đồng thời, tại Quyết định số 2552/QĐ-TTg ngày 21/11/2025, Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn kết quả miễn nhiệm chức vụ Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh nhiệm kỳ 2021-2026 đối với ông Nguyễn Văn Thọ./.