Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
Đây là quan điểm của ông Đào Xuân Lai, Trưởng ban Biến đổi khí hậu, môi trường và năng lượng của Chương trình Phát triển của Liên Hiệp Quốc (UNDP) khi chia sẻ với báo chí về những kết quả cụ thể của đoàn Việt Nam tại Hội nghị Các bên tham gia Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu lần thứ 28 (COP28). Ông Đào Xuân Lai cũng cho rằng, Việt Nam đã đạt được những kết quả quan trọng tại COP28 nhưng để tiến tới mục tiêu Net Zero, có nhiều thách thức phải vượt qua.
Tham dự COP28, Việt Nam đã đạt được những kết quả quan trọng, ông có thể chia sẻ cụ thể hơn về những kết quả nổi bật của Việt Nam tại sự kiện quốc tế lớn nhất năm này?
Ông Đào Xuân Lai: Có thể thấy, đến hết ngày 3/12 - ngày thứ 4 của COP28, Việt Nam đã đạt được 4 kết quả chính.
Thứ nhất, Việt Nam cùng với nhóm các nước gồm Liên minh châu Âu (EU), Vương quốc Anh và Bắc Ireland, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Đức, Pháp, Ý, Canada, Đan Mạch và Na Uy (IPG) đã thông qua kế hoạch huy động nguồn lực 15,5 tỷ USD trong vòng 3 - 5 năm tới để giải quyết nhu cầu cấp bách, mang tính xúc tác cho chuyển đổi năng lượng công bằng của Việt Nam. Các khoản vốn này được IPG cam kết huy động với điều kiện vay vốn hấp dẫn, hỗ trợ tư nhân thông qua các khoản đầu tư.
Đây là dấu mốc quan trọng để Việt Nam đàm phán các khoản vay, các khoản đóng góp cụ thể để khoản 15,5 tỷ USD này giúp Việt Nam chuyển đổi năng lượng và dùng nó như đòn bẩy huy động các nguồn lực tư nhân trong chuyển đổi năng lượng, góp phần thực hiện kinh tế tuần hoàn, kinh tế số, kinh tế xanh.
Thứ hai, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã có bài phát biểu hết sức quan trọng tại COP 28 vào chiều ngày 2/12, trong đó khẳng định quyết tâm thực hiện cam kết phát thải ròng bằng "0" vào năm 2050. Thủ tướng đã kêu gọi các bên cần có sự phối hợp tốt hơn, các nước phát triển cần phải tiếp tục hỗ trợ các nước đang phát triển đặc biệt là về tài chính và chuyển giao công nghệ, để các nước đang phát triển có đủ nguồn lực cũng như năng lực trong thích ứng với biến đổi khí hậu và chuyển đổi năng lượng.
Đặc biệt, Thủ tướng Phạm Minh Chính cũng đã nêu ra những nỗ lực của Việt Nam cũng như kết quả đã đạt được kể từ khi cam kết tại COP26.
Thủ tướng cho biết, thời gian tới sẽ đưa ra hành lang pháp lý, chính sách cụ thể hơn nữa, như xây dựng hệ thống truyền tải điện thông minh, đưa ra hợp đồng chuẩn về mua bán điện năng lượng tái tạo trực tiếp… Đây là những động thái rất rõ ràng và trực tiếp để đảm bảo với các nhà đầu tư nước ngoài rằng Việt Nam cam kết và quyết tâm thực hiện, tạo mọi điều kiện thuận lợi, giảm rủi ro cho các nhà đầu tư, Việt Nam mong muốn thu hút các khoản đầu tư lớn hơn nữa, đầu tư chất lượng hơn trong phát triển xanh, chuyển dịch năng lượng.
Thứ ba, Thủ tướng Phạm Minh Chính và Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường có nhiều buổi họp song phương và đa phương với các nước phát triển và các tập đoàn quốc tế để có thể phát triển, mở rộng quan hệ đối tác với các tập đoàn có danh tiếng về năng lượng tái tạo, điện gió ngoài khơi. Đây là cơ hội để Việt Nam thúc đẩy một ngành kinh tế mới là năng lượng tái tạo cũng như thúc đẩy phát triển điện gió ngoài khơi để Việt Nam có thể xuất khẩu, ví dụ xuất khẩu sang Singapore và các nước ASEAN.
Thứ tư, năm nay Việt Nam có một phòng họp riêng tại Hội nghị, ở đó chúng ta đã tổ chức hơn 10 sự kiện bên lề vừa là chia sẻ các kinh nghiệm, các bài học của Việt Nam trong thích ứng với biến đổi khí hậu cũng như các giải pháp để giảm phát thải khí nhà kính đóng góp cho nỗ lực toàn cầu. Đồng thời, Việt Nam cũng mong muốn học hỏi từ các nước, các chuyên gia về các giải pháp cho ứng phó với biến đổi khí hậu, chuyển dịch năng lượng.
Cho đến nay, COP28 đã có những thành công bước đầu, các bên đã đồng thuận để bắt đầu đưa Quỹ Tổn thất và Thiệt hại đi vào hoạt động với cam kết các khoản tài chính rất lớn. Đến nay đã huy động được khoảng hơn 600 triệu USD.
Tuy nhiên còn nhiều việc ở phía trước để xác định ra các nguyên tắc hoạt động của quỹ và các nước nghèo sẽ phải đóng góp bao nhiêu trong thời gian tới. Tôi mong rằng Việt Nam sẽ tham gia tích cực trong việc hình thành và vận hành quỹ này. Qua đó, Việt Nam có thể được thụ hưởng từ quỹ nhằm giúp cho người dân ven biển của Việt Nam, các tỉnh miền núi miền Bắc, vùng xa vùng xâu có thể nâng cao khả năng chống chịu trước các hình thái thiên tai.
Xin ông đánh giá ý nghĩa và tầm quan trọng của việc Việt Nam công bố Kế hoạch huy động nguồn lực thực hiện Tuyên bố chính trị thiết lập quan hệ đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng (JETP) tại COP28?
Ông Đào Xuân Lai: Chỉ sau một năm kể từ ngày 14/12/2022, Việt Nam là nước thứ ba thống nhất đối tác chuyển dịch năng lượng công bằng và trong một năm Việt Nam đã đưa ra được những lộ trình rất cụ thể, trong đó có đề án của Chính phủ để thể chế hóa, nội địa hóa tuyên bố chính trị. Đây là một điểm sáng, bởi vì là so với các nước đi trước thì Việt Nam đã thúc đẩy mạnh mẽ và nhanh hơn. Nó là một cái điển hình để cho các nước noi theo.
Kế hoạch huy động nguồn lực này là điều kiện quan trọng để Việt Nam có thể hiện thực hóa, thúc đẩy chuyển đổi xanh, chuyển đổi số nền kinh tế như Chính phủ đã quyết tâm theo đuổi. Có thể nói, một điểm nổi bật trong kế hoạch huy động nguồn lực này là nó thúc đẩy phát triển năng lượng tái tạo.
Bên cạnh đó, kế hoạch huy động nguồn lực này cũng tạo điều kiện để chúng ta có thể củng cố về mặt thể chế, pháp lý để tạo nền tảng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, thu hút các nguồn đầu tư chất lượng hơn vào lĩnh vực kinh tế xanh. Kế hoạch này cũng giúp cho Việt Nam có thể đầu tư vào nghiên cứu và triển khai, phối hợp với các tổ chức quốc tế, các nước để chuyển giao công nghệ trong công nghệ
Và một điểm tôi cho là hết sức quan trọng ở trong kế hoạch huy động nguồn lực này là chúng ta có thể nói rằng, công bằng và bình đẳng là cốt lõi của quá trình chuyển đổi năng lượng thành công ở Việt Nam và trong tuyên bố cũng đã đưa ra các quan điểm rất rõ ràng, đó là phải đảm bảo cung cấp điện với giá phải chăng cho người dân có thu nhập thấp.
Kế hoạch cũng đảm bảo phát triển kinh tế địa phương, giúp người dân địa phương được hưởng lợi từ chuyển dịch năng lượng, không ảnh hưởng đến sinh kế. Kế hoạch cần có sự tham gia của tất cả các bên, nhất là những người bị ảnh hưởng để có thể nêu nguyện vọng và đóng góp vào các chính sách chuyển đổi và hỗ trợ chuyển đổi.
Mặt khác, công bằng còn thể hiện qua việc thực thi các chính sách xã hội, chính sách chuyển đổi nghề, nhất là đối với nhóm công nhân, người lao động đang làm việc ở các lĩnh vực năng lượng như là các mỏ than hay là các nhà máy điện than, giúp họ có các kĩ năng mới để có thể chuyển đổi được sang các ngành kinh tế mới.
Ông đánh giá như thể nào về những thách thức Việt Nam phải đối mặt trong quá trình thực thi các cam kết và chuyển dịch năng lượng công bằng cũng như là những nỗ lực của Việt Nam trong thời gian qua?
Ông Đào Xuân Lai: Sau hai năm triển khai cam kết của Thủ tướng Việt Nam tại COP26, Việt Nam đã đưa ra các mục tiêu cụ thể và tham vọng hơn trong bản cập nhật đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC 2022), cũng như chiến lược phát triển carbon thấp dài hạn là Chiến lược Quốc gia về biến đối khí hậu đến năm 2050, đảm bảo đạt phát thải ròng bằng "0".
Chính phủ cũng đã đưa ra các kế hoạch hành động và quy hoạch của các ngành, như kế hoạch quốc gia triển khai Tuyên bố Glasgow về rừng và sử dụng đất đến năm 2030, nhằm quản lý chặt chẽ diện tích rừng tự nhiên, không làm mất rừng và suy thoái đất; Kế hoạch hành động giảm phát thải khí metan đến năm 2030, nhằm giảm phát thải khí metan từ các lĩnh vực quan trọng như quản lý chất thải rắn, chăn nuôi, tiêu thụ nhiên liệu hóa thạch và trồng trọt; Chương trình hành động về chuyển đổi năng lượng xanh, giảm phát thải khí carbon và khí metan của ngành giao thông và gần đây là Quy hoạch phát triển điện 8 (còn gọi là PDP8) và Quy hoạch Phát triển năng lượng tổng thể Quốc gia
Đặc biệt, vào tháng 12 năm 2022, Việt Nam là nước thứ 3 trên thế giới thông qua Đối tác Chuyển dịch năng lượng công bằng (JETP) với các nước G7, EU, Đan Mạch và Na Uy (Nhóm đối tác IPG). Đây là điều mang tính bước ngoặt.
Tuy nhiên, để thực hiện thành công cam kết phát thải ròng bằng "0", đồng thời đạt được mục tiêu trở thành một nước thu nhập trung bình cao vào năm 2045, Việt Nam còn rất nhiều thách thức.
Thứ nhất, các thách thức phát triển cần giải quyết. Việt Nam vẫn còn là nước đang phát triển, nền kinh tế đang chuyển đổi, cần tránh được bẫy của nước có thu nhập trung bình. Việt Nam vẫn còn thách thức giảm nghèo ở một số khu vực, nền kinh tế còn dựa nhiều vào khai thác tài nguyên, nhân lực có trình độ chưa cao và cần đầu tư lớn vào phát triển cơ sở hạ tầng, nền kinh tế còn ở quy mô chưa lớn song lại có độ mở rất lớn với thị trường quốc tế, cần tập trung tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô.
Thứ hai, thách thức về vốn đầu tư. Đạt mức phát thải ròng bằng "0" đòi hỏi chuyển đổi toàn bộ nền kinh tế, theo hướng xanh, tuần hoàn và ít phát thải carbon, đòi hỏi đầu tư rất lớn. Chỉ riêng đầu tư cần thiết cho riêng việc phát triển ngành điện của Việt Nam đến năm 2030 là 134,5 tỷ USD. Như thế, 15,5 tỷ USD được Nhóm đối tác IPG và Glasgow Financial Alliance for Net Zero (GFANZ) cam kết huy động cho Chuyển dịch Năng lương Công bằng (JETP) ở Việt Nam chỉ đóng góp "một phần nhỏ" trong tổng nguồn vốn tài chính cần cho quá trình chuyển đổi năng lượng ở Việt Nam.
Thứ ba, thách thức về công nghệ: Việt Nam cần đầu tư mạnh vào nghiên cứu và triển khai (R&D), đồng thời thúc đẩy hợp tác để chuyển giao công nghệ. Chuyển đổi năng lượng công bằng cần có được công nghệ xanh, các công nghệ mới tiên tiến liên quan đến các lĩnh vực như điện gió ngoài khơi; pin mặt trời; pin; thu giữ carbon, sử dụng và lưu trữ carbon.
Thứ tư, nguồn nhân lực: Nguồn nhân lực Việt nam vẫn còn thiếu các nhà quản trị cấp cao, kỹ sư cao cấp cho các ngành kinh tế mới, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế số. Riêng cho chuyển dịch năng lượng, nguồn nhân lực làm việc tại mỏ than, nhà máy điện than và các ngành liên quan cần được đào tạo lại, nâng cao kỹ năng…. để họ đáp ứng được các kỹ năng mới về việc làm trong lĩnh vực năng lượng tái tạo và chuỗi cung ứng một cách bền vững.
Ông có khuyến nghị gì cho Chính phủ Việt Nam để giải quyết các thách thức trên?
Ông Đào Xuân Lai: Thứ nhất, cải cách thể chế. Việt Nam đã và đang thúc đẩy đẩy cải cách thể chế, tạo môi trường đầu tư minh bạch hơn, trách nhiệm hơn, hấp dẫn và an toàn hơn nhằm thu hút cả đầu tư nước ngoài chất lượng cao và đầu tư từ khối tư nhân trong nước.
Tôi cho rằng, công việc này cần đẩy nhanh hơn nữa nhất là trong ngành năng lượng. Các tập đoàn và doanh nghiệp quốc tế, đa quốc gia và ở các nước phát triển vẫn đang coi Việt Nam là thị trường hấp dẫn đề đầu tư vào những ngành kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, ít phát thải carbon, và công nghệ cao.
Thứ hai, thúc đẩy phát triển công nghệ và chuyển giao công nghệ. Việt Nam cần đầu tư mạnh vào Nghiên cứu và Triển lhai (R&D), đồng thời thúc đẩy hợp tác quốc tế để chuyển giao công nghệ. Chuyển đổi năng lượng công bằng cần có được công nghệ xanh, các công nghệ mới tiên tiến liên quan đến các lĩnh vực như điện gió ngoài khơi; pin mặt trời; lưu trữ điện, hệ thống truyền tải điện thông minh, thu lưu trữ và sử dụng carbon…
Thứ ba, quan điểm của tôi là cần chú trọng phát triển nguồn nhân lực cho các ngành kinh tế mới. Các ngành kinh tế mới như năng lượng tái tạo, kinh tế tuần hoàn, các giải pháp dựa vào tự nhiên đều đòi hỏi nguồn nhân lực lớn, bao gồm các nhà quản lý, các kỹ sư có trình độ cao và công nhân lành nghề.
Việc chuyển đổi năng lượng công bằng cũng đòi hỏi đào tạo lại, đào tạo nâng cao, tăng cường kỹ năng cho nguồn nhân lực hiện có đang làm việc trong các ngành năng lượng hóa thạch, như làm việc tại mỏ than, nhà máy điện than hay chuỗi cung ứng năng lượng hóa thạch.
Bằng cách tăng cường năng lực, cải cách thể chế, tiếp tục khai thác các cơ hội chuyển đổi của toàn nền kinh tế và đảm bảo sự phối hợp liên ngành, Việt Nam có thể đạt được mục tiêu phát thải ròng bằng "0" và hỗ trợ các mục tiêu chuyển đổi năng lượng và phát triển bền vững của đất nước.
Xin trân trọng cảm ơn ông!
Thu Cúc